(Trích dịch từ Chương IV của
tác phẩm Nghiên cứu về thuyết Tánh Không)
Tác giả: Pháp sư Ấn Thuận
Người dịch: Thích Nhuận Thịnh
1.
Tư tưởng trung tâm của Trung luận
Điểm trọng yếu mà Trung luận xiển minh là duyên khởi
(pratītya-samutpāda) của trung đạo (madhyamā-pratipad). Bài kệ quy kính
mở đầu của luận đã biểu thị đầy đủ, như nói: “Không sanh cũng không diệt, không
thường cũng không đoạn, không nhất cũng không dị, không đến cũng không đi: Bậc
đã thuyết nhân duyên (duyên khởi) này, mà nó [nhân duyên] là thiện và diệt trừ
mọi hí luận, tôi cúi đầu lễ Phật – bậc đệ nhất trong các nhà thuyết giáo.”1 Giáo pháp mà đươc Phật khai thị, ở
trong hết thảy học thuyết của thế gian, là tối thượng đệ nhất. Sở dĩ lời Phật
thuyết là tối thượng đệ nhất, không phải là vì cái gì khác, mà là nhân duyên –
thuyết duyên khởi mà Phật đã thuyết. Phật căn cứ duyên khởi mà thuyết pháp, có
thể lìa hết thảy mọi hí luận để được tịch diệt, đây là thuyết không cùng chung
với các học thuyết của thế gian, chi nên nói: ‘Bậc đã thuyết nhân duyên này, mà
nó là thiện và diệt mọi hí luận’. Duyên khởi là tông yếu của Phật pháp, là điều
mà các bộ phái đều công nhận, nhưng giải thích thì bất nhất. Điều trọng yếu mà
Long thọ (Nāgārjuna) xiển dương là duyên
khởi ‘gồm tám phủ định’ như không sanh, không diệt, v.v., cũng chính là duyên
khởi của trung đạo. ‘Ở trong ấy mà thuyết pháp’, ‘tuyên thuyết trung đạo’ mà
kinh Tạp A-hàm nói, chính là duyên khởi không rơi vào hai bên – quan điểm
về đồng nhất, quan điểm về dị biệt, quan điểm về thường, quan điểm về đoạn,
v.v. Vì xiển minh duyên khởi không rơi vào hai bên cho nên gọi là Trung luận.
Thuyết duyên khởi của trung đạo là tông yếu của Phật pháp,
xiển minh ý nghĩa quan trọng này, Long thọ là thông qua ý nghĩa của không (śūnyatā) để xiển dương nên, như2 nói:
1. ‘Do hết thảy mọi pháp, tự tánh đều là không, các pháp là
duyên khởi, bậc Như lai Vô đẳng thuyết.”
2. “Các thuyết không, duyên khởi, trung đạo là một nghĩa: lời
đệ nhất vô đẳng, kính lễ Phật như thế.”
1. là luận Thất thập không tánh, giải thích rõ hết thảy
pháp đều là không, hết thảy pháp đều là duyên khởi. 2. là luận Hồi tránh,
đã liệt kê 3 tên gọi là không, duyên khởi, trung đạo, để chứng tỏ là cùng một nội
dung. Hai bộ luận này của Long thọ đều đã biểu thị mối quan hệ của không và
duyên khởi. Nói được hoàn bị hơn nó, như quyển 4 của Trung luận* nói:
“Nhiều nhân duyên sanh pháp, tôi nói nó là không, cũng gọi
là giả danh, cũng là nghĩa trung đạo. Chưa từng có pháp nào, không từ nhân
duyên sanh, vì thế hết thảy pháp, không gì không phải không.”
Pháp duyên khởi vì sao là trung đạo lìa cả hai bên? Bởi vì
pháp duyên khởi là không. Trong kinh A-hàm, không là không có ngã và ngã
sở, cũng chính là lìa kiến chấp về ngã, kiến chấp về ngã sở. Giả danh – thi thiết
(prajñapti), tuy cũng là điều mà kinh A-hàm đã nói qua, nhưng hiển nhiên
là do sự nghiên cứu của các bộ phái mà phát triển ra; vì tất cả chỉ là giả danh
của kinh Bát-nhã đã nói, cho nên Trung luận đem duyên khởi,
không, giả danh thống nhất lại. Nhưng tông yếu của học phái Long thọ là thuyết
không, thuyết giả danh, mà trọng điểm vẫn là thuyết duyên khởi của trung đạo.
Không lấy sự lìa hết thảy mọi kiến chấp làm chủ, cùng với trung đạo lìa hai bên
tương đồng, cho nên ở sau chỗ nói duyên khởi tức là không, tức là giả, tức là
trung đạo, nói tiếp rằng: ‘chưa từng có pháp nào, không từ nhân duyên sanh, vì
thế hết thảy pháp, không gì không phải không.’ Quy kết lại tất cả đều là không,
cũng chính là quy vào trung đạo. Long thọ căn cứ vào thuyết duyên khởi của
trung đạo, luận phá các kiến chấp khác của các bộ phái (cả đến ngoại đạo) thời
bấy giờ; xem trọng cái không lìa hết mọi kiến chấp – trung đạo, chính là ý
nghĩa của kinh A-hàm và kinh Bát-nhã. Đức Như lai thuyết pháp,
tông thú là ở tại chỗ này, cho nên Trung luận kết thúc tán thán rằng:
“Cù-đàm đại Thánh chủ, thương xót thuyết pháp này, thảy đoạn hết mọi kiến, con
nay xin đảnh lễ.”3 Về sau, căn cứ vào duyên
khởi, giả danh, trung đạo, phân chia ra riêng từng cái để nghiên cứu thêm.
2.
Duyên khởi – bát bất duyên khởi
Trung luận căn cứ vào duyên khởi (pratītya-samutpāda) để chứng minh trung đạo
(madhyamā-pratipad) tức
là không (śūnyatā). Không là lìa các kiến chấp,
Hạ bản Bát-nhã quả thật là nói như thế: “Dùng pháp không mà trụ bát-nhã
ba-la-mật,… Không nên trụ nơi sắc, hoặc nơi thường, hoặc nơi vô thường,… hoặc
nơi khổ, hoặc nơi lạc,… hoặc nơi tịnh, hoặc nơi bất tịnh,… hoặc nơi ngã, hoặc
nơi vô ngã, … hoặc nơi không, hoặc nơi chẳng phải không” (thọ, v.v., cũng nói
giống như thế).1 Nhưng kinh văn nói đến
không, phần nhiều là căn cứ vào niết-bàn siêu việt mà nói, hoặc chỉ là danh tự
hư vọng không thật có mà nói. Căn cứ duyên khởi để nói đến trung đạo, phần cuối
cùng của Hạ bản Bát-nhã mới nói đến, như quyển 9 của kinh Tiểu phẩm
Bát-nhã ba-la-mật* nói:
“Này Tu-bồ-đề! Bát-nhã ba-la-mật là vô tận, vì (như) hư
không là vô tận, bát-nhã ba-la-mật là vô tận. … vì sắc là vô tận, là sanh
bát-nhã ba-la-mật; vì thọ, tưởng, hành, thức là vô tận, là sanh bát-nhã ba-la-mật.
Này Tu-bồ-đề! Khi Bồ-tát ngồi nơi đạo
tràng, quán 12 nhân duyên như thế, lìa nơi nhị biên, đó là pháp bất cộng của Bồ-tát.”
Kinh A-hàm nói rằng, Phật là quán 12 nhân duyên theo
chiều thuận và nghịch nên thành Phật. Phần cuối của Hạ bản Bát-nhã chính
là trình bày về việc Bồ-tát ngồi nơi đạo tràng, đắc được chánh quán về bát-nhã
của trí nhất thiết trí. Duyên khởi của (trung đạo) không rơi vào hai bên [nhị
biên], kinh Bát-nhã nói là ‘như hư không chẳng thể cùng tận’. Nhưng như hư
không chẳng thể cùng tận, kinh trên cũng dựa theo 5 uẩn, 12 nhân duyên, v.v., để
nói, cho nên không thể nói là dùng duyên khởi để xiển minh trung đạo, nhân vì
trong ‘lịch pháp minh không’(a) của
kinh Bát-nhã, duyên khởi và uẩn, xứ, giới, đế, đạo phẩm, v.v., là giống
nhau, chỉ là một môn trong các pháp môn mà thôi.
Thuyết duyên khởi của trung đạo được rút ra từ kinh Tạp A-hàm.
Kinh A-hàm là dùng nhân duyên để thuyết minh tất cả pháp, làm chánh kiến
của tu hành giải thoát. Cách dùng của từ này trong kinh đều chẳng thống nhất:
hoặc nói là nhân (hetu); hoặc nói là duyên (pratyaya); hoặc nêu cả hai là nhân
duyên, như nói “[nhờ có] hai nhân hai duyên mà sinh ra chánh kiến;”2 hoặc nói bằng 4 tên gọi, ‘nhân gì (nidānaṃ), tập (samudaya) gì, sanh
(jātikaṃ) gì, chuyển
gì(b)’ (pabhavaṃ có nghĩa là sanh khởi).3 Những danh từ này là tên gọi khác nhau
mà đồng một ý nghĩa. Đương nhiên, danh tự bất đồng, theo văn tự học giải thích
ra, thì chúng cũng tự có ý nghĩa bất đồng. Nhân duyên, vốn dĩ nó là cực kỳ phức
tạp, cho nên đệ tử Phật dựa theo nghĩa của kinh mà thành lập nên nhiều thuyết
nhân duyên. Như 24 duyên của luận Phát
thú (Paṭṭhānappakaraṇa) thuộc Nam truyền Xích đồng diệp bộ (Tāmraśāṭīya);
10 nhân và 10 duyên của luận Xá-lợi-phất
A-tỳ-đàm (Śariputrābhidharma-śāstra) thuộc hệ Phân biệt
thuyết (Vibhajyavādin),
lưu hành tại Ấn độ bản xứ; 6 nhân và 4 duyên của luận Phát trí (Jñānaprasthāna
śāstra) thuộc Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin);
Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) cũng lập ‘các duyên
như tiên sanh, vô hữu, v.v.(b)’4 Ở
trong các duyên mà được thiết lập bất đồng ấy, thì 4 duyên gồm nhân duyên (hetupratyaya),
thứ đệ duyên (anantara-pratyaya), (sở) duyên duyên (ālambana-pratyaya), tăng thượng duyên (adhipati-pratyaya)
là tối quan trọng nhất, cũng là điều mà đã được kinh Bát-nhã và luận của Long
thọ nói đến. Ngoài ra, kinh Tạp A-hàm
đã đề cập đến duyên khởi (pratītya-samutpāda, paṭicca-samuppāda) và duyên sanh (hoặc dịch
là ‘duyên sở sanh’, ‘duyên dĩ sanh’) (pratītya-samutpanna, paṭicca-samuppanna),5 đồng thời nêu ra mà có giải thích, thì
đương nhiên là có ý nghĩa bất đồng, như quyển 11 của A-tỳ-đạt-ma Pháp uẩn túc luận*
dẫn kinh nói rằng:
“Duyên khởi là gì? Nghĩa là, nhờ vào cái này (cho nên) cái
kia có, cái này sanh cho nên cái kia sanh, đó là, vô minh duyên vào hành,… như
vậy liền tập hợp lại thành một khối lớn thuần khổ. Này các tỳ kheo! Cần phải biết
rằng, sanh duyên với lão tử, mà nếu Phật xuất hiện ở đời hay không xuất hiện ở
đời, thì duyên khởi như vậy, pháp trụ, pháp giới. … Cho đến vô minh duyên với
hành, cần phải biết nó cũng như vậy.”
“Vì sao gọi là duyên dĩ sanh pháp [pháp mà đã được sanh bởi
duyên]? Nghĩa là, vô minh, hành, thức, danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,
sanh, lão tử, như vậy gọi là duyên dĩ sanh pháp. Này các tỳ kheo! Cần phải biết
rằng, lão tử là vô thường, là hữu vi, là cái được tạo ra, là đã sanh do duyên, pháp
có sự chấm dứt, pháp có sự mất đi, pháp có sự rời bỏ, pháp có sự diệt. Sanh… vô
minh cũng như vậy.”(c)
Duyên khởi và duyên
sanh giống nhau đều là 12 chi gồm vô minh, hành, v.v., mà ý nghĩa lại rõ ràng bất
đồng. Pháp do duyên sanh là pháp hữu vi có vô thường, diệt tận, là đã sanh do
duyên – pháp [mà là] kết quả được sanh ra từ duyên. Mà duyên khởi là Phật có xuất
hiện ở đời thì nó cũng như thế, Phật không xuất hiện ở đời thì như thế. ‘Pháp
trụ, pháp giới’ là diễn tả duyên khởi. Kinh Tương
ưng bộ nói: “Pháp định, pháp trụ tức là duyên tánh’ (idappacca-yatā);6 duyên tánh, hoặc dịch là tương y tánh
[mang tính tùy thuộc lẫn nhau]. Kinh mà Pháp
uẩn túc luận đã dẫn, đoạn ở sau còn nói đến: “Pháp tánh, pháp định, pháp
lý, pháp thú mà ở trong ấy, đều là chân, là thật, là đế, là như, chẳng phải là
vọng, chẳng phải là hư, chẳng phải điên đảo, chẳng phải khác.”7 Các hình dung từ của duyên khởi này làm
cho một phần của Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) và Hóa địa bộ (Mahīśāsaka), v.v., cho rằng:
duyên khởi là vô vi;8 luận Xá-lợi-phất
A-tỳ-đàm cũng nói như thế. Đây là sự ly khai sự tướng của nhân quả, mà suy
luận và khẳng định là lý tánh trừu tượng vĩnh hằng bất biến. Nhưng theo kinh Tạp A-hàm, Phật bảo Tu-thâm (Susīma) rằng, không thể nói duyên
khởi là vô vi. Kinh Tạp A-hàm* nói:
“Này Tu-thâm! Ý của ông nghĩ thế nào? Vì có sanh cho nên có
lão tử, không phải lìa sanh mà có lão tử chăng? Tu-thâm đáp rằng: Đúng như vậy,
thưa Thế tôn! Vì có sanh cho nên có lão tử, không phải lìa sanh mà có lão tử.
Như vậy, sanh,… Vì có vô minh cho nên có hành, không phải lìa vô minh mà có
hành chăng? Tu-thâm bạch Phật: Đúng như vậy, thưa Thế tôn! Vì có vô minh cho
nên có hành, không phải lìa vô minh mà có hành.”
“Phật bảo Tu-thâm: Vì không có sanh nên không có lão tử, không
phải lìa sự do sanh bị diệt nên lão tử bị diệt chăng? Tu-thâm bạch Phật rằng:
Đúng như vậy, thưa Thế tôn! Vì không có sanh nên không có lão tử, không phải
lìa sự do sanh bị diệt nên lão tử bị diệt. Như vậy cho đến vì không có vô minh
nên không có hành, không phải sự vô minh bị diệt nên hành bị diệt chăng?
Tu-thâm bạch Phật: Vì không có vô minh nên không có hành, không phải sự vô minh
bị diệt nên hành bị diệt.”
Phật bảo Tu-thâm: Người mà biết như vậy, thấy như vậy là có
sự ly dục, ly các pháp ác bất thiện, cho đến tự bản thân chứng ngộ và an trụ đầy
đủ chăng? Tu-thâm bạch Phật: Không phải vậy, thưa Thế tôn! Phật bảo Tu-thâm: Đó
gọi là trước hết phải biết pháp trụ, sau đó biết được Niết-bàn.”
Tu-thâm xuất gia chưa lâu, nghe thấy có một số tỳ-kheo nói: ‘Đã
chấm dứt sanh tử,… tự biết rằng không còn thọ lại hậu hữu nữa,’ nhưng lại không
đắc được thiền định,9 là huệ
giải thoát (prajñā-vimukti)
A-la-hán. Tu-thâm nghe xong, vô cùng nghi hoặc. Phật bảo cho vị ấy biết rằng: ‘Trước
tiên, ngươi cần biết về pháp trụ, sau đó biết niết-bàn.’ Huệ giải thoát
A-la-hán không có được định sâu, cho nên không có được kinh nghiệm thấy pháp niết-bàn
(dṛṣṭidharma-nirvāṇa),
nhưng biết chính xác mà sâu sắc rằng: ‘vì có vô minh nên có hành, không phải
lìa vô minh mà có hành’; ‘không có vô minh nên không có hành, không phải lìa sự
vô minh bị diệt mà hành diệt’ (các chi khác cũng tương tự như vậy). Đây là chánh kiến dựa vào tính xác định – trí biết về
pháp trụ, của duyên khởi diệt, nên có thể đắc được sự chứng quả về sự diệt của
vô minh nên hành bị diệt,… Vì sanh bị diệt nên lão tử bị diệt. Duyên khởi như vậy
– pháp trụ tánh của sự nhờ duyên nên có và không có, sanh và diệt, thì sao có gọi
là vô vi vậy! Lại nữa, như kinh Đại duyên
phương tiện trong Trường A-hàm,
được Nhất thiết hữu bộ biên tập vào Trung
A-hàm với tên gọi là kinh Đại nhân,
cũng chính là kinh Đại duyên (Mahānidāna-suttanta )
của Trường bộ. Kinh văn thuyết minh rằng ‘duyên khởi là sâu xa’, nên được
gọi là nidāna –
ni-đà-na; ni-đà-na chính là ‘nhân [nguyên nhân]’ của ‘làm nhân, làm tập, làm
sanh, làm chuyển’. Từ những điều này mà xét, thì duyên khởi không thể được nói
là vô vi. Cho nên Thuyết nhất thiết hữu bộ, v.v., không cho rằng ‘có một thực
thể pháp nào riêng biệt được gọi là duyên khởi, thường trụ an nhiên,’10 mà là ‘vô minh nhất định là nhân của
các hành, các hành nhất định là quả của vô minh.”11 Như trong kinh nói duyên khởi là pháp
trụ (dharma-sthitatā,
dhammaṭṭhitatā), pháp
trụ là an trụ, cố định nên không thể cải đổi; duyên khởi là định pháp (dharma-niyāmatā, dhamma-niyāmatā), định pháp là ổn định nên
không hỗn loạn; duyên khởi là pháp giới (dharma-dhātu, dhamma-dhātu),
giới là tính chất ‘nhân’ (tính chất duyên). Như vậy, duyên khởi và duyên sanh đều
là pháp hữu vi, sai biệt ở chỗ: duyên khởi là theo tính chất ‘nhân’ mà nói,
duyên sanh là theo pháp ‘quả’ mà nói. Duyên khởi là hữu vi, trong sự thuyết
minh theo thế tục, luận của Long thọ hiển nhiên là cùng với Thuyết nhất thiết hữu
bộ tương đồng. Theo sự hiểu của tôi, đức Như lai hoặc nói là nhân, hoặc nói là
duyên, v.v., chỉ là thuyết minh dựa theo nhân duyên mà nói là có (và sanh),
cũng là dựa theo nhân duyên nên nói là không có (và diệt), từ sự dựa vào nhân
duyên diệt, xiển minh định luật sự tập khởi của sanh tử và giải thoát của hoàn
diệt. Như Mã thắng (Aśvajit)
nói bài kệ cho Xá-lợi-phất (Śāriputra)
rằng: “Các pháp là từ duyên mà sanh khởi, Như lai nói [duyên] đó là nhân, pháp ấy
do nhân duyên mà diệt tận - đó là lời mà bậc Đại Sa-môn đã nói.”12 ‘Các pháp là từ duyên mà sanh khởi’,
luật Tứ phần nói là ‘nếu là mà được
sanh bởi nhân’, cùng với Xích đồng diệp bộ
luật nói phù hợp nhau; luật Ngũ phần nói ‘pháp từ duyên sanh ra’; luận Trí
độ dịch là ‘các pháp sanh ra bởi nhân duyên’.13
Các điều trình bày ở trên chính là sự tập và diệt của duyên khởi, trừ Căn bản
thuyết nhất thiết hữu bộ luật (‘các pháp sanh ra bởi nhân duyên’ của luận Trí độ, có thể nói là cách dịch khác của
duyên khởi) ra, luật của hệ Phân biệt thuyết đều không có nói là duyên khởi, có
thể thấy rằng, dĩ nhiên chẳng phải nhất định chẳng nói duyên khởi thì không được.
Vì nhằm xiển minh sự khởi và diệt là nhờ vào duyên, tính an trụ, tính quyết định
của tính chất duyên, mới sự thiết lập tương đối của duyên khởi và duyên sanh,
nên nói rằng ‘duyên khởi là sâu xa’. Các Luận sư A-tỳ-đạt-ma xem trọng việc
phân biệt nội dung của vô minh, hành, v.v., sự thiết lập các loại sai biệt của
nhân và duyên nên đối với định luật khởi và diệt theo nhân duyên, ngược lại, dần
dần đã thờ ơ đi! Hạ phẩm Bát-nhã đã
nói đến duyên khởi sâu xa, như kinh Tiểu
phẩm Bát-nhã ba-la-mật* nói:
“Như chiếc đèn đang cháy,… chẳng phải là ngọn lửa cháy ban đầu,
cũng không rời ngọn lửa ban đầu; chẳng phải là ngọn lửa cháy sau, cũng không rồi
ngọn lửa sau. … là cái bấc (đèn) cháy thật.”
“Pháp nhân duyên này là sâu xa! Bồ-tát chẳng phải là nhờ sơ
tâm mà đắc a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, cũng không rời cái sơ tâm ấy mà đắc;
chẳng phải là nhờ tâm sau mà đắc a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, cũng không rời
tâm sau ấy mà đắc a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề.”
‘Pháp nhân duyên này là sâu xa’, Huyền trang dịch là: ‘lý
thú của duyên khởi như vậy là sâu xa’. Trong kinh A-hàm, duyên khởi là căn cứ theo sự khởi và duyệt của sanh tử của
chúng sanh mà nói, ngoài thân ra, tất cả thứ khác cũng được giải thích là duyên
khởi, cho nên lập thành ‘duyên khởi bên trong’ và ‘duyên khởi bên ngoài’, như
kinh Đạo can và luận Thập nhị môn đã nói.14 Dùng sự sanh và diệt của vô minh,
hành, v.v, để nói về duyên khởi, là duyên khởi có chi; sự tu hành và đắc quả của
Thánh đạo, như kinh Bát-nhã đã dẫn
nói, có thể nói là duyên khởi của Thánh đạo. Phật pháp là đã đạt đến kết luận về
tất cả [pháp] đều dựa vào duyên khởi. Bồ-tát là phát tâm bồ-đề, tu hạnh bồ-đề,
đắc quả a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Nhưng trước khi phát tâm, tu hành và
sau khi đắc quả bồ-đề, thì tâm ở giai đoạn trước và tâm ở giai đoạn sau không
thể nói là đồng thời được, thì sao có thể nhờ vào sự thực hành nhân (tâm ở giai
đoạn trước) mà đắc được quả của tâm sau vậy? Kinh ở trên nêu ra tỉ dụ như ngọn
lửa đốt cái tim đèn để giải thích về sự sâu xa của duyên khởi. Khi đã đắc a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề
rồi thì không thể nói đó là tâm ở giai đoạn trước (thực hành nhân); cũng không
lìa cái tâm ở gia đoạn trước ấy, không có tâm ở giai đoạn trước mà tu hành đó,
thì không thể đắc được quả. Không thể nói là tâm ở giai đoạn sau, nếu như chỉ
là một niệm của tâm ở giai đoạn sau, thì đâu có thể đắc quả? Đương nhiên cũng
không thể lìa tâm ở giai đoạn sau mà đắc quả. Như vậy, tâm ở giai đoạn trước và
tâm ở giai đoạn sau là ‘bất tức bất ly’, nhờ hành mà đắc quả, là thuyết nhân quả
của duyên khởi. Văn của kinh Bát-nhã, tiếp theo nói về ý nghĩa ‘chẳng phải thường,
chẳng phải diệt’. Ở đây, theo nhân quả mà như huyễn để nói về duyên khởi; duyên
khởi tức là không (định nghĩa của không là: ‘chẳng phải thường, chẳng phải diệt’),
có thể từ sự xuyên suốt toàn kinh mà rút ra được. Chẳng qua, ở trong kinh Bát-nhã có văn cú quá nhiều, đoạn văn rõ
ràng nói về nghĩa sâu sắc của duyên khởi như thế, chỉ là một điểm như vậy mà
thôi!
Long thọ dùng duyên khởi để trình bày về trung đạo, thể hiện
một cách khẳng định rằng pháp duyên khởi là chánh pháp siêu vượt khỏi thế gian,
có thể đắc được niết-bàn giải thoát, như Trung
luận* nói:
“Nếu pháp mà sanh ra từ duyên, thì nó không phải chính là
nhân, cũng không phải là khác với nhân, vì vậy gọi là thật tướng, vì chẳng phải
đoạn, cũng chẳng phải thường. [10] Chẳng
phải đồng nhất, cũng chẳng phải dị biệt, chẳng phải thường hằng, cũng chẳng phải
đoạn diệt, đó gọi là vị cam lồ giáo hóa của chư Phật Thế tôn.[11]”(d)
Sinh ra từ duyên khởi là pháp quả, pháp quả không phải chính
là nhân (chẳng phải là một), cũng chẳng khác với nhân (chẳng phải là khác). Pháp
quả đều không giống như nhân, cho nên không phải là thường; nhưng quả không rời
nhân, có mối quan hệ nương tựa lẫn nhau không rời, cho nên cũng là chẳng phải
đoạn. ‘Chẳng phải đồng nhất, chẳng phải dị biệt, chẳng phải thường hằng, chẳng
phải đoạn diệt’ là tướng như thật của tất cả pháp. Nói theo giáo pháp, thì đó
là pháp môn bất nhị mà Như lai giáo hóa cho chúng sanh để có thể đắc được vị
cam lộ - vị Niết-bàn giải thoát. Y theo pháp duyên khởi để nói là chẳng phải đồng
nhất, chẳng phải dị biệt, chẳng phải thường hằng, chẳng phải đoạn diệt, là điều
mà kinh A-hàm đã nói. Tất cả pháp là
duyên khởi, cho nên Long thọ đem nghĩa sâu xa của duyên khởi này, xiển minh
duyên khởi gồm 8 phủ định, trở thành phái Trung quán mà người đời sau tôn sùng.
Duyên khởi mà Phật nói, là ‘đệ nhất trong các loại học thuyết’(e), không cùng chung với cái học của thế
gian (và ngoại đạo, v.v.). Nhưng Phật giáo vào thời phân hóa thành các bộ phái,
tuy tuyên thuyết nhất trí về duyên khởi, lại không tránh khỏi sự chấp trước vào
tướng để suy tìm, định nghĩa về duyên khởi, cũng là dị thuyết rối ren vậy. Phần
lớn đều xem trọng sự nhờ duyên mà sanh khởi, xem nhẹ sự nhờ mà diệt, vô. Không
biết rằng ‘cái này có cho nên cái kia có, cái này sanh nên cái kia sanh’, cố
nhiên là duyên khởi; mà ‘cái này không có nên cái kia không có, cái này diệt
nên cái kia diệt’ cũng vẫn là duyên khởi. Kinh Tạp A-hàm chính là nói như thế: “Có nhân có duyên để tập khởi nên
thế gian, có nhân có duyên để thế gian tập khởi; có nhân có duyên để diệt thế
gian, có nhân có duyên để thế gian diệt.”15
Thuyết duyên khởi của Phật là thông với tập và diệt. Ở đây không ngại luận sơ
lược về ý nghĩa của duyên khởi (pratītya-samutpāda). Duyên khởi là thuật ngữ
đặc hữu của Phật pháp, phải có ý nghĩa nghuyên thỉ khác. Nhưng rốt cục ý nghĩa
nguyên thỉ đó là gì? Do vì ‘trong một tự giới(f)
có nhiều nghĩa’ nên người đời sau đều y theo tư tưởng của tông phái mình mà tạo
ra các giải thích bất đồng. Ở trong giới Phật giáo, luận biện về ‘tự nghĩa’ của
duyên khởi, kỳ thật là biểu thị kiến giải bất đồng đối với Phật pháp. Như các
Luận sư theo luận Đại tỳ-bà-sa đã liệt
kê ra 5 thuyết bất đồng, nhưng lại không có đánh giá ai là có giải thích nghĩa
đúng.16 Ý nghĩa đúng, theo luận Câu-xá của Thế thân (Vasubandhu) là: “Do
vì pháp hữu này sau khi đi đến với duyên, hòa hợp rồi sanh khởi, đó là ý nghĩa
của duyên khởi.” Lại nêu thêm các thuyết khác: “Sau khi các duyên hòa hợp với
nhau, làm cho các pháp đang vận hành tụ tập lại rồi sanh khởi lên, đó là nghĩa
của duyên khởi.(g)”17 Theo luận sớ của Xứng hữu (Yaśomitra), thì thuyết khác đó
là do Luận sư Thất-lợi-la-đa (Śrīrāta) của Kinh bộ nói.18
Nghĩa đúng theo luận Thuận chánh lý
là: “vào thời khắc mà duyên đã hòa hợp với nhau rồi, pháp hữu khởi lên, là ý
nghĩa của duyên khởi.”19 Luận Bát-nhã đăng của Thanh biện (Bhavya, Bhāvaviveka) nói: “Do các nhân
duyên hòa hợp (đến với nhau, gặp nhau) nên được sanh khởi, cho nên gọi là duyên
khởi.”20
Luận Minh hiển cú (Prasannapadā), của
Nguyệt xứng (Candrakīrti)
giải thích Trung luận, cùng với luận Câu-xá của Thế thân nói tương đồng.21 Luận Thanh tịnh đạo (Visuddhimagga) của Giác âm (Buddhaghoṣa) cũng có giải
thích về duyên khởi.22 Học
thuyết của Long thọ mà được Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva)
truyền đến nước ta vào tảo kỳ, thì nghĩa của từ duyên khởi, rất có thể là ‘do
các nhân duyên hòa hợp nên được sanh khởi’. Như trong bài kệ không-giả-trung nổi
tiếng, nguyên ngữ của duyên khởi được dịch là ‘pháp được sanh ra do nhiều duyêṅ
(La-thập chỉ dịch là ‘pháp do nhân duyên sanh’). Ở trong luận Đại trí độ, ‘tên gọi giả do duyên hòa hợp’;
‘vì các pháp hòa hợp nên giả gọi [là bát-nhã ba-la-mật]’;23 ‘do nhân duyên hòa hợp mà sanh’ lại là
được thuyết khắp nơi. ‘Nhiều duyên hòa hợp nên sanh’ dường như là cùng với luận
Bát-nhã đăng nói gần nhau. Kỳ thật,
văn tự là pháp thế tục, hàm nghĩa của nó có khả năng biến đổi tùy theo thời đại,
tùy theo địa phương. Nghĩa từ duyên khởi của Long thọ là nghiên cứu về tự nghĩa
nguyên thỉ mà nói chăng? Hay là có thể đã chịu ảnh hưởng tư tưởng của đương thời
và đương xứ chăng? Hoặc là tham khảo, tổng hợp các ý kiến phổ biến, rồi trình
bày kiến giải của chính mình đối với duyên khởi do Phật nói chăng? Tôi cho là,
nghiên cứu về duyên khởi của Long thọ, mà từ trong tự nghĩa của duyên khởi để
thảo luận thì là vô ích. Từ trong luận của Long thọ để lý giải, thì học thuyết
của Long thọ là duyên khởi luận của trung đạo gồm 8 phủ định. Thuyết duyên khởi
của trung đạo là không rơi vào hai bên, là điều vốn đã có trong A-hàm. Thông qua từ bộ phái về sau, trải
qua Bát-nhã của Đại thừa mà đại thành
– khai triển tư tưởng tánh không, giả danh, đến Long thọ thì diễn tả đầy đủ nghĩa
như thật của duyên khởi – tức không, tức giả (cho nên gọi là Trung luận). Tất cả là duyên khởi: nhờ
vào duyên khởi mà thế gian được tập khởi, nhờ vào duyên khởi mà thế gian hoại
diệt. Tương ưng bộ nói: duyên khởi “là
pháp định, pháp xác lập (trụ), tức là tánh tùy thuộc lẫn nhau.”24 Tánh tùy thuộc lẫn nhau (idappaccayatā), hoặc dịch là ‘tánh
duyên’, ‘tánh nương vào duyên’. Kinh Tạp
A-hàm cùng tương đương với nó, là ‘pháp này là thường trụ, pháp trụ, pháp
giới’.25 Giới (dhātu) cũng là ý nghĩa ‘nhân’, cùng với ‘tánh nương vào
duyên’ tương đương. Cho nên nói một cách chung chung, thì duyên khởi là ‘tánh
nương vào duyên’. Tất cả là duyên khởi, tức tất cả nhờ duyên mà được dựng lập
nên.
Trung luận, v.v.,
đả phá ngoại đạo, lại phá khắp các bộ phái của Phật giáo đương thời, đây là
nhân vì các bộ phái Phật giáo đương thời đều nói đến duyên khởi mà không thấy
được nghĩa như thật của duyên khởi, không tránh khỏi sự rơi vào hai bên. Các học
giả cận đại, từ bản Phạn, Tạng ngữ của Trung
luận, v.v., để nghiên cứu, cũng có thành tựu đáng kể, nhưng luôn luôn dùng
lập trường của cái học thế gian để luận cứu, xem trọng nơi phương pháp luận phá
– logic, biện chứng pháp, cho là học thuyết của Long thọ là như vầy như vầy. Họ
không biết rằng học thuyết của Long thọ chỉ là xiển minh duyên khởi của Phật
thuyết, kế thừa duyên khởi gồm chẳng phải là một, chẳng phải là khác (chẳng tức
chẳng ly), chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, chẳng phải đến, chẳng phải đi,
chẳng phải sanh chẳng phải diệt (chẳng phải có, chẳng phải vô) trong kinh A-hàm; do trải qua quá trình triển khai
tư tưởng lâu dài nên trình bày càng giản lược, đầy đủ, đi sâu vào hơn mà thôi.
Như kinh Tạp A-hàm phủ định quan điểm
không có nguyên nhân tạo ra – 4 hình thức tạo ra, gồm tự nó tạo ra, cái khác tạo
ra, tự nó và cái khác cùng tạo ra, chẳng phải tự nó chẳng phải cái khác tạo ra(h) của ngoại đạo, mà nói là ‘từ duyên khởi
sanh’.26 Phẩm Quán khổ của Trung luận chính là phân biệt, luận phá đối với 4 hình thức tạo ra
này.27 Tất cả pháp từ duyên khởi sanh, cho
nên phẩm Quán (nhân) duyên nói: “Các pháp chẳng phải do tự nó sanh; cũng chẳng
từ cái khác sanh ra; chẳng phải cọng [cả hai - tự và tha] lại mà sanh, chẳng phải
không có nhân mà sanh; vì vậy biết nó là không có sanh.(i)”28
Trung luận quy kết vào vô sanh [không
có sanh], cũng chính là duyên sanh, như kinh Vô nhiệt não thỉnh vấn nói: “Nếu từ duyên sanh, tức là không có
sanh.”29 Lại như hai kiến chấp là hữu và vô, phẩm
Quán hữu vô của Trung luận là dẫn
kinh San-đà-ca-chiên-diên, mà tiến
hành phá bỏ.30 Phẩm Quán niết-bàn cũng
đả phá quan điểm cho niết-bàn là hữu, là vô: “Như trong kinh, Phật nói [cần phải]
đoạn trừ [kiến chấp về] hữu, đoạn trừ [kiến chấp về] chẳng phải hữu; vì vậy biết
rằng, niết-bàn là chẳng phải hữu, cũng chẳng phải là vô.(j)”31
Nhưng người đời lại chấp niết-bàn là cũng có cũng vô, hoặc nói là chẳng phải có
chẳng phải vô, cho nên lại tiến thêm bước nữa phá bỏ, rồi phá bỏ 4 chấp trước –
là có, là vô; là cũng có cũng vô; là chẳng phải có chẳng phải vô. Kỳ thật, phá
bỏ tứ cú là kinh A-hàm đã có từ lâu,
như: hữu biên, vô biên, cũng hữu biên cũng vô biên, chẳng phải hữu biên chẳng
phải vô biên; thường, vô thường, cũng thường cũng vô thường, chẳng phải thường
chẳng phải vô thường; đi, chẳng đi, cũng đi cũng chẳng đi, chẳng phải đi chẳng
phải không đi; ngã có sắc, ngã không có sắc, ngã cũng có sắc cũng không có sắc,
ngã chẳng phải có sắc chẳng phải không có sắc.32
Các loại tứ cú đó, chẳng có cái nào là không dựa vào tính tương đối của ngôn ngữ,
tư tưởng, lần lượt suy luận mà thành lập nên. Lại như phẩm Quán như lai nói: “Chẳng
phải ấm, chẳng phải lìa ấm, đó và kia [như lai và ấm] không ở trong nhau; như
lai không có ấm, ở đâu có như lai?(k)”33 Quán ngã (ngã và như lai, trong ngôn
thuyết của thế tục, có chung ý nghĩa) và 5 ấm là ‘chẳng tức, chẳng ly, chẳng ở
trong nhau’, đó là điều mà kinh A-hàm
nhiều lần nói đến. Tức là ấm chẳng phải là ngã, lìa ấm ra thì chẳng phải là
ngã, đây là một, là khác – cái chấp hai bên căn bản; không ở trong nhau là ngã
không ở trong ấm, ấm không ở trong ngã. Bốn cú này, nếu như dựa theo 5 ấm mà
phân biệt, thì chính là 20 cú của kiến chấp về ngã và ngã sở. Do sự lần lượt khởi
lên chấp trước của người đời mà Trung luận lại thêm ‘ngã (Như lai) không có ấm’,
trở thành 5 môn suy xét. Đến thời đại của Nguyệt xứng (Candrakīrti), đại để là do dị thuyết
càng nhiều, cho nên lại tăng nhiều thêm đến 7 môn suy xét.
Duyên khởi là căn cứ vào tánh dựa vào duyên để chứng minh sự
hữu, vô, sanh, diệt của pháp. Hữu là tồn tại, vô là không tồn tại, đây là dựa
theo thể của pháp mà nói. Từ vô mà trở thành hữu nên gọi là sanh, từ hữu mà trở
thành vô nên gọi là diệt (cùng là từ vị lai đến hiện tại gọi là sanh, từ hiện tại
mà trở thành quá khứ thì gọi là diệt), sanh và diệt là tướng của pháp ở trong
dòng thời gian. Hữu và sanh, vô và diệt của pháp duyên khởi đều là ‘vì cái này
cho nên cái kia’, cũng chính là nhờ vào các duyên mà thành như thế này. ‘vì cái
này cho nên cái kia’, cho nên chẳng phải tức chẳng phải ly, sự đả phá của Trung luận chỉ là dùng pháp tắc này để ứng
dụng vào tất cả. Giải thích Phật pháp theo cách thông thường, thì mỗi khi hiểu là
về tất cả pháp một cách riêng biệt, trở lại thuyết về duyên khởi, nói đến tánh
tùy thuộc lẫn nhau, đây đều là không phù hợp với nghĩa đúng đắn của duyên khởi
mà Phật đã nói, cho nên đả phá thêm từng cái. Tùy theo thế tục mà thuyết pháp
thì không thể không nói một cách tương đối, như hữu và vô, sanh và diệt, nhân
và quả, sanh tử và niết-bàn, hữu vi và vô vi, v.v. Sự thuyết pháp của Phật và đệ
tử của Phật có nhiều loại hai pháp có tính tương đối, như tướng và được xem là
tướng,(l) thấy và bị thấy, đốt (cháy) và bị đốt,
tác nhân và bị tác động, nhiễm và bị nhiễm, trói và bị trói, v.v. Như sự tương
đối của nhân và pháp, sự có đi và người đi (sự đi và đứng cũng giống như thế),
sự thấy và người thấy, sự nhiễm và người bị nhiễm, hành đồng và người hành động,
sự chịu tác động và người chịu tác động, sự chấp trước và người chấp trước.
Cũng có 3 sự đều nêu ra, như sự thấy, đối tượng bị thấy, người thấy, v.v. Những
vấn đề này, người thông thường thì nhận lãnh riêng từng cái, cho nên không phù
hợp với duyên khởi mà tiếp xúc với chỗ nào thì đều khó thông được. Trung luận, v.v, dựa vào nghĩa của duyên
khởi chẳng phải tức chẳng phải ly, hoặc dựa theo trước sau, hoặc dựa theo đồng
thời, đả phá thêm từng cái một. Đả phá sự không thể nắm bắt của tất cả cũng
chính là thành lập nên tất cả của duyên khởi, như phẩm Quán Tứ đế nói: “Bởi vì
có nghĩa của không, cho nên tất cả pháp được thành lập.(m)”34
Ngoài phẩm Quán mười hai nhân duyên, sự trình bày sự tập khởi và diệt tận của
khổ ấm (uẩn), Trung luận lại nói như
thế này:35
1. “Nhân có nghiệp nên có người tạo tác, nhân có người tạo
tác nên có nghiệp, nghĩa của nghiệp được thành lập như thế, không có sự nào
khác.”(n)
2. “Điên đảo như thế bị diệt rồi, thì vô minh cũng diệt; bởi
vì vô minh bị diệt cho nên các hành, v.v, cũng diệt.”(o)
3. “Nay ngã không lìa thọ, cũng chẳng phải tức là thọ, chẳng
phải không có thọ, chẳng phải không có gì cả, đây tức là nghĩa được xác định.”(p)
4. “Vì vậy trong kinh nói: nếu thấy pháp nhân duyên, thời là
có thể thấy Phật, thấy được Khổ, Tập, Diệt, Đạo đế.”(q)
Tất cả pháp mà được trình bày, thành lập bởi Trung luận là
duyên khởi, không thể dựa vào chuyện thường tình của thế gian để lý giải, mà là
duyên khởi gồm ‘tám phủ định’ – chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng thường, chẳng đoạn,
chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng đến, chẳng đi, cũng chính là phải từ sự
tức là không mà để lý giải pháp duyên khởi như là huyễn, như là hóa, như Trung luận nói:
1. “Giống như huyễn, cũng giống như mộng, như thành
càn-thát-bàn, cái được gọi là sanh-trụ-diệt ấy, tướng của nó cũng như vậy.”(r)
2. “Như Thế tôn dùng thần thông biến hóa tạo ra con người;
con người do biến hóa mà có như vậy lại biến hóa tạo ra người khác nữa. Như vậy
người được biến hóa ra đầu tiên được gọi là tác giả; những hành động của người
biến hóa ấy làm ra thì được gọi là nghiệp. Các phiền não và nghiệp, tác giả và
quả báo, đều như huyễn và mộng, như ánh lửa, cũng như tiếng vang.”(s)
3. “Sáu loại – sắc, thanh, hương, vị, xúc, và thể của pháp,
đều là không, giống như ánh lửa, như mộng, như thành càn-thát-bà. Trong sáu loại
như thế, thì có cái gì tịnh hay bất tịnh? (Tịnh và bất tịnh) giống như người
huyễn hóa, cũng như ảnh ở trong gương.”(t)
4. “Năm ấm thường tương tục, giống như ngọn lửa đang cháy của
cây đèn.”(u)
Pháp thế gian của duyên khởi là giống như huyễn, như hóa; niết-bàn
của xuất thế gian là ‘vì chịu sự chi phối của nhân duyên nên luân chuyển trong
sanh tử; cái mà không chịu sự chi phối của nhân duyên, thì gọi đó là niết-bàn,’37 cũng là dựa vào ‘cái này không có cho
nên cái kia không có, cái này diệt cho nên cái kia diệt’ của duyên khởi mà
thành lập. Nói đến như lai, là thuộc năm loại không thể cầu nắm bắt được giống
như ngã, mà cũng không thể nói là không có, cho nên nói: ‘người có tà kiến sâu
nặng thì nói không có như lai.”38 Tóm lại,
như lai và niết-bàn, từ tám sự phủ định của duyên khởi mà nói, là dứt tuyệt các
hí luận nên không thể diễn tả được: “Trong tánh không ấy, tự tánh là cái mà
dùng tư duy cũng không thể được(v) (chẳng
phải dùng tư biện của thế tục mà có thể diễn tả đến được)… Đức Như lai đã vượt
khỏi mọi hí luận, mà mọi người thì hí luận”(w); “Các pháp là không thể nắm bắt, khi đã diệt
hết mọi hí luận, thì không có người, cũng không có xứ sở, Phật cũng không thể
diễn tả pháp ấy được.(x)”39
Như từ duyên khởi gồm tám phủ định mà nói, thì như lai và niết-bàn ấy đều là
như huyễn, như hóa mà đã được trình bày, điều này phù hợp với điều mà kinh Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật nói: “Ta nói rằng
Phật đạo là như huyễn, như mộng; Ta nói rằng niết-bàn cũng như huyễn, như mộng.
Nếu như có pháp nào đó mà vượt hơn niết-bàn, thì Ta nói nó cũng lại như huyễn,
như mộng.”40
3.
Giả danh – thọ giả
Giả danh, ở trong tư tưởng của Trung luận, có ý nghĩa rất quan trọng. Đầu tiên, Nguyên thỉ Bát-nhã của kinh Bát-nhã
đã biểu thị đầy đủ ý nghĩa rằng tất cả pháp ‘chỉ là tên gọi’, như kinh Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật* nói:
“Bạch Thế tôn! Vị mà được gọi là Bồ-tát, Bồ-tát ấy, thì những
pháp nghĩa gì là Bồ-tát? Con không thấy có pháp nào gọi là Bồ-tát. Bạch Thế
tôn! Con không thấy Bồ-tát, không đắc được quả vị Bồ-tát, cũng không thấy,
không đắc bát-nhã ba-la-mật, thì sẽ phải dạy những bát-nhã ba-la-mật gì cho các
vị Bồ-tát?
“Bạch Thế tôn! Con không đắc, không thấy có Bồ-tát, thì sẽ
phải dạy những bát-nhã ba-la-mật gì cho các vị Bồ-tát? Bạch Thế tôn! Con không
thấy sự đến và đi của pháp Bồ-tát, mà dùng ngôn ngữ đối với Bồ-tát, nói là Bồ-tát,
thì con thấy lưỡng lự. Bạch Thế tôn! Lại nữa, từ Bồ-tát không có tính xác định,
không có trụ xứ, vì sao vậy? Vì từ đó là vô sở hữu [không có thật].”1
Phật bảo Tu-bồ-đề (Subhūti) thuyết bát-nhã ba-la-mật (jñāpāramitā) cho các vị Bồ-tát
(Bodhisattva), nên đã mở ra phần đầu của kinh Bát-nhã. Tu-bồ-đề thưa với Phật:
nói đến Bồ-tát, thì rốt cục Bồ-tát là gì? Con không thấy được, cũng không có từng
đắc được, có thể dùng tên gọi làm thật thể của Bồ-tát. Bát-nhã ba-la-mật cũng
là không thể thấy, không thể đắc giống như thế. Như vậy, con phải lấy bát-nhã
ba-la-mật như thế nào để hướng dẫn điều gì cho Bồ-tát vậy! Tiếp theo, từ sự
không thấy, không đắc được Bồ-tát và bát-nhã ba-la-mật, nói thêm rằng: con
không thấy có pháp của Bồ-tát, hoặc (sanh) đến, hoặc diệt (đi),2 cái gì cũng không thể nắm bắt, con giả
sử gọi đó là Bồ-tát, nói Bồ-tát là như thế này như thế kia, điều đó sẽ có cảm
giác sai lầm nên tâm sanh lưỡng lự. Cần phải biết rằng, danh tự (nāma) là không
có tính quyết định (cùng một danh tự mà có thể có nghiều ý nghĩa), không phải
rơi trên một pháp thực tại nào đó, danh tự là vô sở hữu. Tất cả chỉ có danh tự
- thuộc phạm trù danh tự (duy danh, nāmamātrā), không có thật tánh, Tu-bồ-đề vốn có lập trường của sự
thể ngộ bát-nhã, cho nên nói như thế. Nói không có Bồ-tát, không có Bồ-tát, đây
chính là đã nói bát-nhã ba-la-mật cho Bồ-tát. Nếu đã nghe là chỉ có tên gọi giả,
tất cả đều không thể nắm bắt, mà có thể không nghi ngờ, không sợ sệt, đó chính
là Bồ-tát đã an trụ nơi bát-nhã ba-la-mật rồi. Bồ-tát là người, bát-nhã là
pháp, người và pháp đều là tên gọi giả không có thật; pháp môn này, có thể từ
Nhất thiết bộ (Ekavyāvahārika) khai triển mà ra.
Người (Bồ-tát), pháp (bát-nhã) là không thể nắm bắt, tất cả
chỉ có danh tự của Nguyên thỉ Bát-nhã,
ở trong Trung bản Bát-nhã (thông thường
gọi nó là Đại phẩm) đã có trình bày thêm một bước nữa: tất cả là “do hòa hợp
cho nên có, pháp này và danh tự cũng chẳng sanh chẳng diệt, chỉ dùng danh tự để
trình bày; danh tự này cũng chẳng ở trong, cũng chẳng ở ngoài, chẳng ở khoảng giữa.”3 Và đối với tất cả mà chỉ có giả danh ấy,
đã đề xuất ba giả thuyết, như kinh Ma-ha
bát-nhã na-la-mật* nói:
“Bồ-tát ma-ha-tát thực hành bát-nhã ba-la-mật cần phải học
như thế này, danh là giả thiết lập nên, thọ là giả thiết lập nên, pháp là giả
thiết lập nên.”
Tất cả chỉ có giả danh [tên gọi giả], danh tự cũng chỉ là
tên gọi giả, ở trong bát-nhã, tất cả đều là không thể nắm bắt. nhưng từ mọi thứ
của thế gian mà để thông suốt được giả danh, không thể nắm bắt, cũng không thể
không biết tánh thứ lớp, tính đa dạng của cái giả danh của thế tục, cho nên lập
thành 3 loại giả. Theo luận Đại trí độ,
3 loại giả đặt bày nên, là 3 ba-la-nhiếp-đề. Ba-la-nhiếp-đề (prajñapti), dịch
nghĩa là giả, giả danh, đặt bày nên, giả đặt bày nên, v.v.(a) Ba loại giả đặt bày nên này, theo giải
thích của luận Đại trí độ thì có 有二復次;
giải thích đầu tiên là: “Các pháp như 5 chúng (uẩn), v.v., thì gọi là pháp
ba-la-nhiếp-đề. Vì 5 chúng là do nhân duyên hòa hợp tạo thành nên gọi là chúng
sanh, các xương hòa hợp nên gọi là cái sọ đầu. Như rễ, thân, cành, là hòa hợp với
nhau nên gọi là cây, đó gọi là thọ ba-la-nhiếp-đề. Dùng danh tự này áp dụng cho
hai pháp tướng (pháp và thọ), nói là 2 loại, đó gọi là danh tự ba-la-nhiếp-đề.”4 Theo điều mà luận đã nói, thì pháp
ba-la-nhiếp-đề - pháp giả (dharmaprajñapti), là mỗi mỗi pháp như uẩn, xứ, giới.
Mỗi mỗi vi trần của sắc, thanh, v.v; mỗi mỗi tâm và tâm sở của tham, sân, v.v.,
Luận sư A-tỳ-đạt-ma cho rằng chúng là pháp có thật, kinh Bát-nhã gọi chúng là pháp giả được đặt bày nên. Thọ là giả, như 5 uẩn
hòa hợp làm chúng sanh, các xương hòa hợp làm sọ đầu, cành lá, v.v, hòa hợp làm
cây, đây là vật phức hợp. Trong dịch ngữ của La-thập, thọ và thủ (upādāna) tương đương, như 5 thủ uẩn dịch là 5 thọ ấm, cho nên thọ
ba-la-nhiếp-đề có thể là upādāna-prajñapti. Cái thọ giả đặt
– cái thủ giả đặt, theo ý của luận, không thể giải thích là sự ôm giữ [nhiếp thủ]
của tâm, mà là ý nghĩa nắm lấy các duyên hòa hợp. Danh giả đặt (nāma-prajñapti) là danh tự để
gọi cho pháp và thọ, danh tự là sự giả đặt bày nên mà thế tục cùng chấp nhận.
Ba cái giả được nói đến đó, ở trong các bản dịch, là đại khái có thêm bớt, như
sau:5
A
|
B
|
C
|
D
|
E
|
F
|
Danh giả thi thiết
|
Danh giả
|
Danh giả
|
Tự pháp
|
|
Danh giả
|
Thọ giả thi thiết
|
|
|
Hiệp pháp
|
Nhân duyên hòa hợp nên đặt hiệu giả
|
|
Pháp giả thi thiết
|
Pháp giả
|
Pháp giả
|
|
Pháp được đặt hiệu
|
Pháp giả
|
|
Giáo thụ giả
|
Phương tiện giả
|
Quyền pháp
|
Sở hiệu thiện quyền
|
|
Phải hiểu được ba cái giả của kinh Bát-nhã để có thể cùng với ‘hữu’ của các luận sư A-tỳ-đạt-ma làm sự
quan sát để so sánh, như luận A-tỳ-đạt-ma
Đại tỳ-bà-sa* nói:
“Nhưng về các sự hữu, thì có thuyết nói gồm 2 loại: 1. Thật
vật hữu, đó là uẩn, giới, v.v.; 2. Thi thiết hữu, đó là nam, nữ, v.v.”
“Có thuyết nói gồm 5 loại: 1. Danh hữu, lông rùa, sừng thỏ,
hoa đốm trong hưu không, v.v.; 2. Thật hữu, trong tất cả pháp, mỗi pháp đều trụ
nơi tự tánh của chính nó; 3. Giả hữu, đó là cái bình, chiếc áo, cỗ xe, đoàn
quân, khu rừng, cái nhà, v.v.; 4. Hòa hiệp hữu, đó là ở trong các uẩn hòa hợp với
nhau, đặt bày ra bổ-đặc-già-la; 5. Tương đãi hữu, đó là bờ bên này và bờ bên
kia, sự dài và ngắn, v.v.”
Luận sư A-tỳ-đạt-ma lập nên quan điểm thật vật (pháp) là có
và cái mà được đặt bày nên là có, đây là sự phân loại căn bản, cùng với phần thứ
3 của kinh Đại Bát-nhã (bản F) chỉ lập
danh giả và pháp giả phù hợp nhau. Theo kinh nói, ngã; đầu, cổ, v.v.; cỏ cây,
v.v.; chư Phật thuộc thời quá khứ, vị lai; cảnh trong mộng, âm vang trong cái
hang, v.v., đều nói là “Các tên gọi giả như vậy chẳng phải sanh, chẳng phải diệt,
duy chỉ do tưởng về hữu, v.v., nên đặt bày thành ngôn thuyết.6 Cho nên, danh giả của trong hai loại giả
ấy, cùng với thi thiết hữu của trong hai loại hữu của các Luận sư A-tỳ-đạt-ma
tương đương. Kinh Bát-nhã lập nên 3
loại giả: pháp giả thì đương nhiên cùng với thật vật hữu – thật có, tương
đương. Giả hữu, hòa hợp hữu của trong 5 loại hữu là phân loại lại của thi thiết
hữu, cùng với thọ giả của kinh Bát-nhã
tương đương. Danh hữu là lông rùa, sừng thỏ, v.v., ở trong thế tục cũng chỉ có
là một loại giả thiết, có thể bào hàm trong ở trong danh giả; nhưng danh giả của
trong 3 loại giả là đặt nặng ở danh tự của sự xưng hô pháp và thọ ấy. Chẳng
qua, 3 loại giả của kinh Bát-nhã,
không có lập nên thọ giả (bao hàm ở trong danh giả), mà lập riêng phương tiện
giả - giáo thụ giả, quyền pháp, v.v. Ở đây là nói: Phật dạy dỗ, thuyết pháp cho
đệ tử, đều là sự đặt bày của phương tiện khéo léo, như luận Pháp uẩn túc dẫn kinh nói: “Duyên khởi
như vậy, pháp trụ, pháp giới, tất cả Như lai đều thông đạt một cách tự nhiên,
giác ngộ đúng đắn [đẳng giác], tuyên thuyết, đặt bày ra, dựng nên, phân biệt,
khai thị, làm cho nó hiển lộ ra.”7 Như lai
thuyết pháp, vốn dựa vào sự tự giác tự chứng, mà dùng phương tiện đặt bày nên
danh tướng, tuyên thuyết khai thị cho chúng sanh. Giáo pháp của Phật, tất cả đều
là phương tiện được đặt bày nên. Đây vốn là kiến giải nhất quán của kinh A-hàm trở về sau, như kinh Đệ nhất nghĩa không nói: “Tục số pháp,
nghĩa là cái này có cho nên cái kia có, cái này khởi cho nên cái kia khởi,”8 v.v., sự tập và diệt cùa duyên khởi. Tục
số pháp được nói đó, luận Thuận chánh lý
dẫn kinh, được dịch là ‘pháp giả’.9
Các Luận sư A-tỳ-đạt-ma tuy biết tất cả giáo pháp như duyên khởi, v.v., là
phương tiện đặt bày nên, nhưng đối với pháp nghĩa của văn cú được giải thích và
biểu đạt, thảy đều chia làm thật có và giả có. Kinh Bát-nhã trình bày rằng tất cả pháp chỉ là giả đặt nên, theo điều mà
được luận Đại trí độ nói, có ý nghĩa
về sự ngộ nhập theo thứ tự, như nói: “Trước hết, hành giả phá bỏ danh tự
ba-la-nhiếp-đề, đến thọ ba-la-nhiếp-đề; thứ đến phá thọ ba-la-nhiếp-đề, đến
pháp ba-la-nhiếp-đề; phá pháp ba-la-nhiếp-đề, đến trong thật tướng của các
pháp. Thật tướng của các pháp tức là các pháp và danh tự là không bát-nhã
ba-la-mật.”10
Bài kệ không-giả-trung của Trung luận, tiếp theo chỗ duyên khởi tức là không, nói: “Cũng chính
là giả danh.” Giả danh ở đây, nguyên văn là prajñaptirupādāya,
chính là ‘thọ giả thi thiết’ của kinh Bát-nhã
đã nói. Theo bản giải thích Trung luận
của Thanh mục: “Không cũng lại là không, chỉ là vì dẫn dắt chúng sanh, dùng giả
danh để thuyết; lìa hai bên hữu và vô cho nên gọi là Trung đạo.”11
Giả danh là chỉ cho thuyết tánh không: pháp duyên khởi tức
là (tánh) không, mà (tánh) không chỉ là giả danh. Cho nên duyên khởi tức là
không, lìa hữu biên; không chỉ là giả danh (không cũng chẳng thể nắm bắt), lìa
vô biên: duyên khởi là Trung đạo không rơi vào hai bên là hữu và vô. Đương
nhiên, giả danh có thể dựa thoe thuyết duyên khởi, cấu thành duyên khởi là
trung đạo tức không, tức giả. Chẳng qua, y theo 3 loại giả của kinh Bát-nhã để nói, duyên khởi là pháp giả,
(tánh) không phải là danh giả, vì sao Trung
luận và kinh Bát-nhã bất đồng, đặc
biệt sử dụng từ thọ giả này vậy! A-tỳ-đạt-ma
của Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin) lập nên 2 loại hữu, 3
loại hữu, 5 loại hữu, đã bao hàm tất cả thật hữu, giả hữu, và không có danh tự
tương đương với thọ (giả). Thọ giả phải là từ hệ Độc tử bộ (Vātsīputrīya)
mà có. Như luận Tam pháp độ* nói:
“Cái không thể diễn tả là thọ, quá khứ, diệt thi thiết. Thọ
thi thiết, quá khứ thi thiết, nếu ai không biết về chúng, thì gọi là không biết
về cái không thể diễn tả. (Không biết) thọ thi thiết là chúng sanh đã thọ ấm,
giới, nhập, cho đó (chúng sanh và ấm, giới, nhập là) một, và khác (chấp có sự
khác nhau).”
Luận Tam pháp độ
là luận điển thuộc về hệ Độc tử bộ.12
Độc tử bộ lập nên cái ngã không thể diễn tả (anabhilāpya-pudgala, bất khả thuyết ngã), lại có 3 loại; thọ thi
thiết là dựa vào uẩn, giới, xứ mà đặt bày nên, như Dị bộ tông luân luận nói: “Độc tử bộ có quan điểm đồng với tông
phái gốc của họ,(b) nghĩa là bổ-đặc-dà-la (sác
thủ thú), chẳng phải tức uẩn, chẳng phải ly uẩn, dựa vào uẩn, xứ, giới mà giả đặt
để nên tên gọi.”13 Bổ-đặc-dà-la – ngã,
không thể nói rằng nó cùng với uẩn, v.v, là một, không thể nói nói nó cùng với
uẩn, v.v., là khác. Chẳng phải đồng nhất, chẳng phải dị biệt, nếu như chấp trước
là một hoặc là khác, thì đây chính là ‘không biết về cái chẳng thể nói’. Ngã của
Độc tử bộ là ‘giả đặt nên tên gọi’. Ngoài ra, có luận Tam-di-để bộ, tam-di-để (saṃmatīya) là âm dịch của chánh lượng; Chánh lượng bộ là một tông
phái lớn chia ra từ Độc tử bộ. Luận Tam-di-để
bộ* cũng nói:
“Phật nói có 3 loại người.”
“Hỏi: Ba loại người là gì? Đáp: người theo y thuyết, người
theo độ thuyết, người theo diệt thuyết. (Tiểu
chú: Thuyết, cũng gọi là đặt để, cũng gọi là chế ra, cũng gọi là giả
danh).”
Ba loại người, cùng với 3 loại thi thiết (cái ngã không thể
diễn tả) của luận Tam pháp độ tương đồng.
Chữ ‘thuyết’ của ‘y nhân thuyết’, theo tiểu chú, có thể dịch là đặt để [an lập],
giả danh, có thể biết đó là cách dịch khác của ‘thi thiết’, cho nên ‘y nhân thuyết’
chính là ‘cái ngã của thọ thi thiết’. ‘Y’ hoặc ‘thọ’ chính là upādāya trong prajñapti upādāya
mà Trung luận đã nói. Chữ này có các
ý nghĩa như ‘nương tựa’, ‘nguyên nhân’, ‘nền tảng’, ‘lấy’ (thọ), v.v., cho nên
luận Bát-nhã đăng giải thích rằng: “Nếu
nói từ duyên sanh ra, thì cũng là tên gọi khác của không. Vì sao vậy? Vì nguyên
nhân nó là do đặt bày mà có.(c)”14 Bát-nhã
đăng luận quảng chú (Prajñāpradīpatīkā) của Quán thệ (Avalokitavrata),
giải thích ‘nhân thi thiết’ là upādānam upādāya prajñapti tức ‘thủ
là nhân thi thiết’. Trần-na (Diṅnāga) xuất gia theo Độc tử
bộ, cũng có luận Thủ nhân thi thiết
(Prajñaptihetusaṃgraha). Tóm lại, ‘thọ giả’ mà kinh Bát-nhã nói chính là prajñapti upādāya
(nhân thi thiết) mà Trung luận đã
nói. Thuật ngữ này là do từ trong hệ Độc tử bộ mà ra.
Nhằm để thuyết minh duyên khởi của Trung luận là giải danh – thọ giả thi thiết, cho nên chia nó ra để
trình bày.
1. Sự thuyết pháp của Phật là dùng ngữ cú làm phương tiện để
biểu đạt, gọi là thi thiết (giả), như phương tiện giả, giáo thụ giả của kinh Bát-nhã, nó là điều được giới Phật giáo
công nhận. Đối với nội dung được biểu thị, tuy có ‘giả danh hữu’ [có theo giả
danh],, như năm uẩn hòa hợp thì gọi là ngã, cành, lá, v.v, hòa hợp thì gọi là
cây, nhưng tổng thảy được xem là: ‘cái giả ắt phải dựa trên cái thật’, có thật
pháp tồn tại – thật pháp hữu [pháp tồn tại như là thật có]. Như Thuyết nhất
thuyết hữu bộ nói rằng uẩn, xứ, giới đều là có thật tự tánh; luận Câu-xá cho rằng: uẩn là giả, mà xứ, giới
là có thật; Kinh bộ (Sautrāntika)
cho rằng uẩn, xứ là giả, mà giới là có thật. Những học phái thuộc hệ Thượng tọa
bộ (Sthavira) này đều là thành lập nên thật pháp hữu [có pháp thật tồn tại].
Trong Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika), Thuyết giả bộ (Prajñaptivādin) là bộ phái dùng từ
‘thuyết giả’ làm tên của bộ phái mình, đã lập luận ’12 xứ chẳng phải là chân thật;15 Nhất thuyết bộ nói: các pháp chỉ là những
tên gọi mà chẳng có thật. Có hoặc không có lập thật pháp làm điểm y cứ, trong
truyền thuyết không có ghi chép rõ ràng.
2. Tất cả pháp đều từ nhân duyên sanh ra, từ nhiều duyên
sanh ra, chẳng phải từ một nhân sanh ra, là điều mà giới Phật giáo đều công nhận.
Thuyết nhất thiết hữu bộ lập ‘pháp tánh hằng trụ’, ‘ba đời là thật có’,(d) cho nên từ nhân duyên sanh, và chẳng
phải sanh ra pháp thể mới, pháp thể là nhất như trong ba đời. Từ duyên sanh, chỉ
là do lực của nhiều nhân duyên, pháp thể và ‘sanh’ tương ưng, từ vị lai đến hiện
tại, thì gọi là sanh khởi mà thôi. Như Kinh bộ nói rằng hiện tại là thật có, mà
quá khứ và vị lai là chẳng phải thật có, cho nên từ duyên sanh là: giới – công
năng của mỗi mỗi pháp, nối tiếp nhau trong hiện tại của từng sát-na, do lực của
duyên mà hiện khởi, làm tiên phong cho thuyết chủng tử sanh hiện hành của tông
Duy thức. Sự được sanh ra do nhân duyên như thế, đều là có tự tánh riêng biệt.16
3. Giả danh hữu – thi thiết hữu, giữa các bộ phái cũng có kiến
giải bất đồng. Như dựa vào 5 uẩn mà giả gọi nó là bổ-đặc-dà-la, theo Thuyết nhất
thiết hữu bộ, giả hữu là không có thực thể, cho nên nói là vô ngã. Hệ Độc tử bộ
cho rằng: Dựa vào 5 uẩn mà đặt bày nên bổ-đặc-dà-la, là thọ giả, bất khả thuyết(e)
và uẩn vừa là đồng nhất, vừa là dị biệt, ‘cái khả không thể diễn tả’ là (thọ giả)
hữu. Như cho rằng chính uẩn là ngã, hoặc là lìa uẩn là ngã, thì cái ngã ấy là
không có, cho nên nói là vô ngã.
4. Kinh Bát-nhã lập
nên 3 cái giả, xem trọng nơi chỉ có tên gọi mà không có thực thể, tên gọi và thực
thể chẳng tương ưng với nhau, cho nên nói: danh tự ‘chẳng phải (ở) trong, chẳng
phải (ở) ngoài, chẳng phải (trụ) ở giữa.’ Dựa theo chỉ có tên gọi mà không có
thật thể, ‘chỉ dùng giả danh để nói’, Trung
luận cũng sử dụng cái giả thiết (prajñapti) chung này, nhưng chỉ luận đến
thuyết duyên khởi, tất cả đều nhờ duyên mà có (mà sanh, mà vô, mà diệt). Tánh
chất duyên và pháp được sanh ra, không thể nói chúng là một, không thể nói là
khác. Tính chẳng đồng nhất chẳng dị biệt của pháp duyên khởi, ở trong thời
gian, chính là chẳng phải thường hằng, chẳng phải đoạn diệt. Cái này và thọ thi
thiết của Độc tử bộ, không thể nói là một, không thể nói là khác, cũng không thể
nói là thường, là vô thường, có ý nghĩa cùng thông với nhau. Chẳng qua, hệ Độc
tử bộ chỉ dựa theo thuyết bổ-đặc-dà-la, mà Trung
luận thì dựa theo thuyết tất cả đều là duyên khởi.
5. Trung bản Bát-nhã
– bản gồm 22000 bài kệ, được luận Đại trí
độ giải thích, lập nên 3 loại giả, dựa theo tầng lớp bất đồng của pháp thế
tục mà lập nên, cùng với các Trung bản Bát-nhã
khác bất đồng. Giả danh – thọ giả, của ‘bài kệ không-giả-trung’ của Long thọ,
chính là căn cứ vào bản kinh này mà ra. Ở trong các loại giả, Long thọ không chọn
lấy ‘danh giả’, vì nếu như chọn tất cả đều là giả danh thì dễ gây hiểu nhầm, gần
với quan điểm tất cả pháp giống như hoa giữa hư không của Phương quảng đạo
nhân. ‘Danh’ [tên gọi] là cái được đặt để bởi cái tưởng của tâm, cũng có thể dẫn
theo hướng thuyết Duy thức. Đời sau này có các thành ngữ ‘duy danh, duy biểu,
duy giả thi thiết’, duy biểu (vijñaptimātra) Huyền trang dịch chính là ‘duy thức’. Long thọ cũng
không chọn lấy ‘pháp giả’, pháp giả là điểm mà các bộ phái đều công nhận, nhưng
căn cứ vào pháp thi thiết, các bộ phái cuối cùng đều quy vào có tánh thật hữu,
không thể lộ rõ nghĩa của không. Long thọ đặc biệt dùng ‘thọ giả’ để giải thích
về sự hữu của tất cả pháp. Nhờ duyên nên đặt bày là có, là như huyễn, như hóa,
tuy là giả nhưng có tướng dụng của sự có thể nghe, có thể thấy, cùng với sự chỉ
có tên gọi của hoa giữa hư không như thế là bất đồng (Hệ Độc tử bộ căn cứ vào uẩn,
xứ, v.v., đặt bày nên cái ngã không thể diễn tả, cùng với cái giả có của Hữu bộ
là bất đồng, là chẳng phải đồng nhất, chẳng phải dị biệt, chẳng phỉa thường hằng,
chẳng phải đoạn diệt, nên có thể nói rằng có cái ngã không thể diễn tả, cổ nhân
gọi là ‘giả hữu thể gia - những người theo thuyết có thực thể giả’). Thọ giả -
y vào duyên khởi mà đặt bày nên (duyên cũng dựa vào duyên khác), có tác dụng của
duyên khởi mà không có tự tánh thật, không có tự tánh mà có tác dụng của duyên
khởi; tất cả đều như thế, cho nên tất cả là tức không tức giả. Long thọ nói
‘không – giả - trung’, dùng ‘thọ giả’ làm thông nghĩa của tất cả là giả có, trở
thành đặc sắc của Trung luận.
4.
Tánh không – vô tự tánh không
Phẩm Quán Tứ đế của Trung
luận nói: “Pháp mà do nhiều nhân duyên sanh ra, Ta nói nó tức là không.”1 Pháp mà do nhiều nhân duyên sanh ra –
pháp duyên khởi (pratītyasamutpāda), chính là không – tánh
không (śūnyatā). ‘Ta nói’, từ trước đều
giải thích là Phật nói, nhưng nguyên văn là số nhiều của nhân xưng ngôi thứ nhất,(a) cho nên là ‘chúng tôi nói’. Duyên khởi
tức là tánh không, vào thời đại của Long thọ, là điều mà được bộ phận học giả Đại
thừa cùng nói. Ở trên đã nói đến, ý nghĩa chủ yếu của không ở trong kinh Bát-nhã là tên gọi khác của niết-bàn,
chân như, v.v. Ở chương trên, nói đến pháp môn của Văn-thù (Mañjuśrī) gần với kinh Bát-nhã,
dùng duyên khởi làm cõi này – pháp môn tiên yếu của sự thuyết pháp của Phật
Thích-ca (Śākya), mà
điều mà Văn-thù nói, lại là ‘y cứ vào thắng nghĩa’, ‘chỉ y cứ vào pháp giới’; căn
cứ vào lời dạy của Phật bằng âm thanh mà triển khai, được gọi là bộ phái Thanh
văn của Phật giáo, đại để là ngoài hữu vi còn nói đến vô vi, ngoài sanh tử còn
lập nên niết-bàn, cho nên hình thành sự đối lập nghiêm trọng. Phương tiện được
đặt bày nên của pháp Thanh văn và pháp Đại thừa đương nhiên có nhiều sai biệt,
nhưng cũng không nên đối lập nghiêm trọng như thế. Ở trong kinh A-hàm, Phật Thích-ca y cứ vào trung đạo
(madhyamā-pratipad) mà
thuyết pháp, cũng chính là y cứ vào thuyết duyên khởi. ‘Cái này có cho nên cái
kia có, cái này sanh cho nên cái kia sanh’, sanh tử lưu chuyển dựa vào duyên khởi
mà tập khởi. ‘Cái này không có cho nên cái kia không có, cái này diệt cho nên
cái kia diệt’, sanh tử cũng dựa vào duyên khởi mà hoàn diệt. Dựa vào duyên mà tập
khởi, dựa vào duyên mà diệt, sanh tử và niết-bàn (niết-bàn, hoặc nói là tánh
không, chân như, v.v.) đều dựa vào duyên mà đặt bày thành lập nên. Long thọ tôn
trọng lời dạy gốc của Phật Thích-ca, đem ‘tất cả pháp đều là không’ của Bát-nhã, đặt để vào thuyết duyên khởi của
trung đạo, nên nói: ‘pháp mà do nhiều nhân duyên sanh ra (duyên khởi), (chúng)
tôi nói nó chính là tánh không’. Duyên khởi tức là không, cho nên nói: “chẳng
phải lìa ra ngoài sanh tử mà có niết-bàn riêng biệt’.2 Đồng thời, khi mê tức là duyên khởi của
không mà có sanh tử tập khởi, khi ngộ thì duyên khởi tức là không mà sanh tử diệt;
sanh tử và niết-bàn đều dựa vào duyên khởi mà thành lập.3 Duyên
khởi tức không, là chỗ tinh yếu của Trung luận. Phát huy nghĩa sâu xa của
duyên khởi trong kinh A-hàm (dựa vào
trung đạo mà thuyết pháp), đã thông suốt khéo léo Thanh văn và Đại thừa, được sự
tôn trọng của các học giả đời sau.
Pháp duyên khởi tức là (tánh) không, vì sao pháp duyên khởi
(cũng chính là hết thảy pháp) tức là không vậy? Như Hồi tránh luận4
nói:
“Nếu pháp nhờ duyên mà sanh khởi, tức nói nó là không; Nếu
pháp nhờ duyên mà sanh khởi, tức nói nó là không có tự tánh.(b)” (Đây
là bài tụng, ở sau là phần giải thích). “Pháp mà sanh khởi do nhiều duyên,
tức là tánh không. Vì sao vậy? Vì là không có tự tánh. Pháp mà sanh khởi do nhiều
duyên, tánh của nó chẳng có, vì không có tự tánh. … Vì không có tự tánh cho nên
nói nó là không.”
Dùng vô tự tánh (niḥsvabhāva) để chứng minh duyên khởi tức không, Bản giải thích Trung luận của Thanh mục cũng nói: “Nhiều
duyên đầy đủ, hòa hợp với nhau nên vật được sanh, vì vật này phụ thuộc vào nhiều
duyên cho nên không có tự tánh, vì không có tự tánh cho nên là không.”5 Luận Đại trí độ cũng nhiều lần nói: “Nếu từ sự hòa hợp của nhân duyên
sanh ra, thì pháp ấy không có tự tánh; nếu không có tự tánh, thì tức là không.”6 Bài tụng của Trung luận nói: “Như tự tánh của các pháp không ở trong duyên.”
“Trong các duyên mà có tự tánh, thì việc này thời không đúng.” “Ấm hòa hợp mà
có như lai, thì không có tự tánh.” “Nếu anh xem các pháp, nhất định có (tự)
tánh, thì tức là thấy các pháp không có nhân cũng không có duyên. … Chưa từng
có một pháp mà không từ nhân duyên sanh ra, vì vậy tất cả pháp, không có pháp
nào không phải là không.”7 Tự
tánh (svabhāva) là sự
tự thành tựu sự ‘tự hữu’, cùng với sự do nhiều duyên hòa hợp mà có, vừa đúng
tương phản. Cho nên, phàm cái gì là do nhiều duyên mà có, thì không có tự tánh;
nếu như nói pháp có tự tánh, thì nó đã không từ duyên sanh ra. Tất cả là nhờ
nhân duyên mà có, cho nên tất cả là không có tự tánh; tất cả không có tự tánh
cũng là tất cả pháp không có pháp nào không phải là không. Tiến thêm một bước
nói rằng, do vì tất cả pháp không có tự tánh nên là không, cho nên tất cả nhờ
vào nhân duyên mà thành lập, ‘bởi vì có nghĩa của không, cho nên tất cả pháp được
thành tựu,’8 đã hiện rõ đặc sắc của
Long thọ học. Dựa vào sự không có tự tánh để xiển minh tính nhất trí của duyên
khởi và không, nên tất cả nhờ vào duyên của kinh A-hàm và tất cả pháp đều là không của kinh Bát-nhã, v.v., đã được thông suốt với nhau, nên đạt thành định luận
của ‘duyên khởi tức là không’. Trình bày điểm đặc sắc này của Long thọ học, vẫn
phải bắt đầu từ kinh A-hàm và kinh Bát-nhã mà nói.
Trong kinh A-hàm,
người xuất gia tu hành tại nơi không tịch, cũng là dùng sự không tịch (an tĩnh)
để diễn tả cảnh giới của sự không có thủ, không có chấp trước, cho nên ‘không
có các dục’, ‘không có tham, không có sân, không có si’. Ở phương diện khác,
‘không có các hành’, các hành là không, không có ngã và ngã sở. Trong kinh nói:
sắc giống như bọt nước, thọ giống như bong bóng nước, tưởng giống như quáng nắng,
hành giống như cây chuối, thức giống như sự huyễn hóa, là các thí dụ để chỉ cho
các hành là không. Không là không có ngã và ngã sở, ở trong Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) đã có giải thích rằng ngã là không, pháp là không.
Cho nên, ‘không’ có ý nghĩa là không hư [hoàn toàn không, ngoan không], cũng có
biểu thị ý nghĩa của dự không có chấp trước, không có phiền lụy, giải thoát tự
tại. Nguyên thỉ Bát-nhã, vốn là người
tu hành mà đã thể ngộ được pháp tướng (tánh) sâu xa, từ sự chứng ngộ mà nêu ra
giáo pháp (không phải là từ tìm hiểu giáo nghĩa mà ra), biểu thị ngay chính cảnh
giới của sự chứng ngộ của chính mình, dùng để dẫn dắt tín chúng, cho nên nói: “Vì
dùng pháp tánh chân thật làm định lượng.”9
Trong sự khai triển pháp môn bát-nhã, không là một danh từ biểu thị cho pháp
tánh sâu xa. Trong các loại từ ngữ tất cả pháp chẳng sanh, tất cả pháp là thanh
tịnh, tất cả pháp là (viễn) ly, tất cả pháp là tịch diệt (tịch tĩnh), tất cả
pháp là không, tất cả pháp là vô sở hữu, tất cả pháp là không thể nắm bắt, tất
cả pháp là không y cứ vào đâu, tất cả pháp đều không thể suy lường…, ‘không’
càng thích hợp với chính tất cả pháp để chỉ rõ tướng như thật của chúng.
‘Không’, ở trong kinh Bát-nhã, được ứng
dụng rộng rãi, cuối cùng trở thành đặc sắc của kinh Bát-nhã. Pháp môn bát-nhã là xem trọng thực tiễn, thấy một cách trực
tiếp tất cả pháp vốn là không (không là một từ đồng nghĩa dị danh [với vô sở hữu…]),
nhưng pháp lưu hành ở nhân gian, nghe, tư duy, tư tập, phải có sự đặt bày khéo
léo. Chương ở trên từng liệt kê để trình bày rằng: không, vô sở hữu, vô sanh,
viễn ly, tịch tĩnh, v.v, là biểu thị (sự ngộ nhập) pháp tánh sâu xa; không, vô
sở hữu, hư vọng, chẳng phải thật, v.v., là biểu thị sự tướng hư vọng thông thường.
Không (và vô sở hữu) là đã nối liền với tất cả pháp là hư vọng và tướng sâu xa
của tất cả pháp. Tất cả đều hư vọng chẳng thật là duyên khởi vô tự tánh
(không), vô tự tánh không tức là niết-bàn không tịch. Dùng vô tự tánh để làm
sáng tỏ duyên khởi tức là không, trở thành giải thích sanh tử tức niết-bàn,
nghĩa sâu xa tối khéo léo của Đại thừa.
Tự tánh là sự tự hữu, cho nên dựa vào sự hòa hợp của nhiều
duyên mà như thế, thì không thể nói là có tự tánh, nếu có tự tánh thì chẳng phải
được sanh ra từ duyên. Trung luận* nói:
“Trong các duyên mà có (tự) tánh, thì việc này thời không
đúng. Tánh mà từ duyên sinh ra, tức gọi là pháp được tạo thành.(c) …
Tánh mà được gọi là không phải được tạo thành, thì không đợi pháp khác tạo
thành.(d)”
“Nếu pháp thực sự có tánh, thì về sau không nên (có biến) đổi(e).”
Duyên khởi là pháp mà giới Phật giáo đều công nhận, nhưng
thông thường cho rằng: mỗi mỗi pháp đều là thật có tự tánh, pháp có tự tánh từ
nhân duyên hòa hợp nên sanh khởi. Dựa vào Long thọ học để nói, thì đây là tự
mâu thuẫn với nhau, có tự tánh (tự hữu), thế thì đã không cần từ nhâ duyên sanh
ra. Cái mà từ nhân duyên sanh ra thì chính là pháp được tạo thành (kṛtaka), đã
là pháp được tạo thành thì không thể nói là tồn tại tự tánh [tự tánh hữu]. Nếu
như thật có tự tánh, thì cũng không thể có biến đổi. Tự tánh là tự thể mà không
chờ đợi cái khác, không có liên quan đến cái khác; không thể biến đổi thì phải
là thường hằng như thế: nó cùng với pháp mà từ duyên sanh ra chẳng phù hợp
nhau. Tự tánh mà không đợi cái khác, không biến đổi ấy, là căn nguyên ở vô minh
cùng với sanh phối hợp mà ra. Tất cả thứ mà hiện ra trong tâm thức, biết trực
tiếp được đúng đắn như thế - cảm nhận về thật tại, luôn luôn nhận thức rằng
chúng cùng với chúng ta là không chia cách. Đó chính là phát hiện được nó từ
nhân duyên sanh, chẳng phải thật, bị biến đổi, v.v., cũng là do vì vô tri cùng
với sanh phối hợp mà ra, tổng thảy là suy luận rằng: về nội tại, về vi tế, là tự
tánh hữu, đạt đến kết luận ‘cái giả ắt phải dựa vào cái thật’. Theo Trung luận nói: Long thọ đã triệt để phủ
định sự tồn tại của tự tánh [tự tánh hữu], thành pháp môn là không có tự tánh,
duyên khởi tức không. Nhân vì tất cả đều không có tự tánh, cho nên tất cả pháp
là không, nhờ vào không có tự tánh mà khế nhập tánh không, tánh không tức là
tên gọi khác của niết-bàn, tịch tĩnh, v.v. Không chẳng phải là không có gì cả,
nêu thí dụ để trình bày, giống như sự không trở ngại của hư không, không là chẳng
gây trợ ngại cho sự hữu. Do vì không không có tự tánh, cho nên nhờ duyên khởi
mà tất cả - pháp thế gian và xuất thế gian đều có thể thành lập. Ngược lại, nếu
tất cả đều chẳng phải là không, là tồn tại tự tánh, thì chúng không chờ nhân
duyên, tất cả pháp đều đã không thể thành lập. Long thọ tuyên thuyết rõ ràng rằng:10
“1. Bởi vì có nghĩa không, cho nên tất cả pháp được thành lập;
nếu không có nghĩa không ấy, thì tất cả pháp chẳng được thành lập.”(f)
“2. Nếu có người nào tin vào không, thì người ấy đã tin tất
cả; nếu người nào không tin vào không, thì người ấy chẳng tin tất cả.”(g)
Đây là dựa vào không để thành lập nên tất cả. Không không có
tự tánh, cho nên dựa vào duyên để khởi tất cả, nhân vì vô tự tánh không, cho
nên chính do duyên khởi nên tịch diệt. Duyên khởi chính là không, cho nên cái
mà được duyên khởi sanh ra thì đó tức là niết-bàn. A-tỳ-đạt-ma pháp uẩn túc luận*
dẫn kinh nói:
“Nếu Phật xuất hiện ở đời hay không xuất hiện ở đời, thì duyên
khởi như vậy là pháp trụ, pháp giới. Tất cả Như lai tự nhiên thông đạt, giác ngộ
chơn chánh, tuyên thuyết, đặt bày, dựng nên, phân biệt, khai thị, khiến cho
chúng sanh nhận thức rõ. … Trong ấy có pháp tánh, pháp định, pháp lý, pháp thú
nào, thì chúng đều là chân, là thật, là đế, là như, chẳng phải vọng, chẳng phải
hư, chẳng phải điên đảo, chẳng phải đổi khác.”11
(Chân) như, pháp giới, v.v., là diễn tả pháp duyên khởi, mà ở
trong kinh điển Đại thừa, chân như có 12 tên gọi khác nhau: “chân như, pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng biến đổi, tánh bình đẳng, tánh ly
sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, chẳng thể suy lường giới;”12 mà chân như, pháp giới, v.v., được giải
thích là tên gọi khác của niết-bàn.13
Nói theo thông thường, duyên khởi là hữu vi, niết-bàn là vô vi. Phật pháp vốn lấy
pháp duyên khởi làm tông chỉ, mà bát-nhã, v.v., là Phật pháp Đại thừa, lại dùng
chân như, pháp giới, v.v, làm căn bản; trên mặt hiểu biết và thực hành, thì đã
hình thành sự đối lập nghiêm trọng, Long thọ dùng một điều căn bản mà xuyên suốt
hết chúng, xuất phát từ duyên khởi – pháp do nhiều duyên sanh ra, chỉ có tên gọi
mà không có thật, vì không có tự tánh cō nên tự tánh là không. Do vậy duyên khởi
tức là duyên khởi của (tánh) không (tên gọi khác của niết-bàn), tánh không là
không làm chướng ngại tánh không của duyên khởi. Nói tánh chất của pháp duyên
khởi là như, pháp giới, hoặc nói niết-bàn tức như, pháp giới, chỉ là phương tiện
để giải thích bất đồng, mà nghĩa chân thật thì nhất trí với nhau. Tám phủ định
– thuyết duyên khởi của không, đúng là cực kì khéo léo vậy!
Không, Long thọ dùng vô tự tánh để trình bày, cố nhiên là kế
thừa từ Trung bản Bát-nhã về sau, dần
dần có khuynh hướng xem trọng đối với ý nghĩa của không là sự hư vọng không có
thật, cũng có ý nghĩa ‘đối trị’ nhằm vào các bộ phái Phật giáo đương thời. Kinh
A-hàm thuộc sơ kỳ, có prakṛti – bổn
tánh (cũng có dịch là tự tánh), mà không có từ svabhāva – tự tánh, tự tánh là thuật ngữ của bộ phái Phật giáo.
Tất cả pháp mà Phật nói – sắc, tâm, tâm sở, v.v., các đệ tự của Phật đã tìm hiểu
đặc tướng – tự tướng (svalakṣaṇa) của mỗi mỗi danh từ, lại từ tướng mà luận cứu
về thật chất của mỗi mỗi pháp, rồi gọi nó là tự tánh. Đây là giải thích, xác
minh đối với những gì kinh nói, để không đến nỗi hiểu sai, là điều cần thiết.
Nhưng tìm kiếm thật thể, cuối cùng đạt đến kết luận ‘cái giả ắt phải dựa trên
cái thật’; luận đến nhân quả, sanh diệt của mỗi mỗi pháp, mối quan hệ đến thời
vị lai, hiện tại, quá khứ, dẫn đến tư tưởng ‘pháp tánh hằng trụ’. Đây là một hệ
thống lớn, trừ Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin)
ra, Độc tử bộ (Vātsīputrīya) và (4) bộ phái tách ra từ nó, đều chủ trương tất cả đều
có tự tánh. Luận Đại tỳ-bà-sa nói:
“Đó là, tông nghĩa do các vị ấy (Độc tử bộ) lập và của chúng tôi (Thuyết nhất
thiết hữu bộ) lập, tuy đa phần giống nhau nhưng có một ít khác nhau. Nghĩa là,
bộ ấy chủ trương… thể của bổ-đặc-dà-la là thật hữu. Như vậy có khoảng 6 hoặc 7
chủ trương, bất đồng với chúng tôi, còn lại thì tương tợ.”14 Có thể thấy hai phái lớn này, ban đầu
chẳng qua là có 6 hoặc 7 nghĩa bất đồng mà thôi. Hệ tư tưởng này, ở tại Tây Bắc
Ấn độ, có khu vực truyền giáo rất rộng lớn, cực kỳ hưng thịnh. Hệ này cho rằng:
mỗi mỗi pháp là thật có tự tánh. Từ vị lai đến hiện tại, từ hiện tại đi vào quá
khứ, dường như là có sanh có diệt, có biến đổi, kỳ thật, ‘thể chân thật luôn hằng
hữu, không có tăng không có giảm, chỉ dựa vào tác dụng, nên nói là có hay không
có.”15 “Tự tánh của các hành là không có thay
đổi. … Nghĩa là, mỗi pháp trong tất cả pháp đều tự trụ nơi tự thể của nó. … Cái
mà có chuyển biến ấy, là pháp hữu vi khi có được thế lực mạnh thì sanh, khi mất
đi thế lực thì diệt.”16 Đây
là do mỗi mỗi pháp (hữu vi) xưa nay vốn là như thế: hiện tại là như thế này,
(khi chưa sanh) vị lai cũng là như thế, (đã diệt) quá khứ cũng vẫn là như thế.
Cho nên nói: “ba đời là thật có, pháp tánh hằng trụ’. Hằng, là ở trong dòng thời
gian (ba đời), từ khởi đầu đến kết thúc đều không có tăng hay giảm, không có biến
đổi. Phật nói từ nhân duyên sanh, và chẳng nói đến tự tánh của pháp – tự thể có
sanh và diệt, biến đổi, chỉ là khi nhân duyên hòa hợp, có sự hiện khởi và mất
đi của tác dụng, nên nói là có hay không có mà thôi. Pháp hữu vi sanh diệt có tự
tánh, pháp vô vi vốn chẳng sanh chẳng diệt cũng là thật có tự tánh. Loại tư tưởng
này, phái An-đạt-la (Andhaka, tổng cộng có 4 bộ) thuộc hệ Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) ở Nam Ấn độ, cho rằng: “Tất cả pháp đều tồn tại, mỗi
đời trong ba đời đều trụ nơi vị của chính nó;” “tự tánh của tất cả pháp là xác
định.”17 Tuy không thể hiểu rõ đầy
đủ pháp nghĩa của họ, nhưng rõ ràng cùng với chủ trương củ Thuyết nhất thiết hữu
bộ giống nhau. Long thọ chuyên dựa vào sự không có tự tánh của duyên khởi để
nói về không, có thể nói là đả phá những người có chủ trương ‘tự tánh là tồn tại’
đang thịnh hành lúc bấy giờ, ở nơi lập trường hoàn toàn tương phản.
Lý luận của thế gian là thường thường ngang nhau tương phản,
lại có ý kiến tương tợ nhau. Như luận Đại trí độ* nói:
“Cái như của các
pháp, có 2 loại: một là, mỗi mỗi tướng; hai là, thật tướng. Mỗi mỗi tướng là
như tướng cứng của đất,… Thật tướng là ở trong mỗi mỗi tướng ấy, phân tích để
tìm kiếm thật tướng của chúng, thì đều không thể nắm bắt được, không thể phá hoại.
… Nếu không thể nắm bắt được, thì cái thật của chúng đều là không, không chính
là thật tướng (tánh) của đất. Tất cả tướng riêng đều cũng nư thế, đó gọi là
như.”
“Mỗi mỗi pháp có 9 loại: một là, hữu thể; hai là, mỗi mỗi hữu
pháp;… Biết được mỗi mỗi hữu thể của pháp này, biết đầy đủ về pháp, đó gọi là
cái như bậc hạ của thế gian. Biết 9 pháp này cuối cùng rời cũng sẽ biến đổi rồi
diệt mất, đó gọi là biết cái như bậc trung. … Pháp ấy chẳng phải tồn tại, chẳng
phải không tồn tại, chẳng phải sanh, chẳng phải diệt; các pháp được quán sát ấy
diệt rồi, rốt ráo thanh tịnh, đó gọi là cái như bậc thượng.”
Như – chân như (tathatā) là biểu thị như thế như thế, không có hai, cũng không có
khác. Danh từ này có thể thông với nhiều phuong diện. Đoạn văn đầu, chia làm
hai: 1, tánh của mỗi mỗi pháp là cứng, v.v., là luôn luôn như thế, ‘không bỏ
tính chất của chính nó’, cho nên tánh chất cứng, v.v, của thế gian cũng có thể
được gọi là như. 2, tìm kiếm tánh chất thật của mỗi mỗi pháp đều không thể nắm
bắt được, ‘cái thật của chúng đều là không’, không là như như chẳng thay đổi
(và chẳng phải là một), là thật tánh của tất cả pháp, đây cũng gọi là như. Đoạn
văn thứ hai, chia như làm 3 loại: cái như bậc hạ là tự tánh cứng, v.v., của tất
cả pháp. Cái như bậc trung là cộng tướng (sāmānya-lakṣaṇa)
như vô thường, v.v. Cái như bậc thượng chính là thật tánh – không, chẳng phải
sanh hay diệt, chẳng phải hữu hay vô. Từ hai đoạn luận văn này, có thể nhận ra
rằng tự tánh tồn tại theo thông thường và tánh không có chỗ giống nhau. Theo
các Luận sư thuyết nhất thiết hữu bộ nói: tự tánh của mỗi mỗi pháp là hằng trụ,
chẳng tăng chẳng giảm, chẳng phải sanh chẳng phải diệt; do nhân duyên khởi lên
tác dụng, cho nên nói là sanh hay nói là diệt, nói là có hoặc nói là không có
[vô]. Theo luận của Long thọ nói: tánh không là thật tánh của tất cả pháp, cũng
có thể gọi là (thắng nghĩa) tự tánh. Tánh không là chẳng sanh chẳng diệt, chẳng
phải có, chẳng phải không có; y theo lực của nhân duyên mà nói là sanh, diệt,
có hay không có. Đây không phải là có nhiều chỗ giống nhau ư? Đương nhiên đây
là bất đồng về căn bản. Tự tánh của mỗi mỗi pháp, theo những người chủ trương tất
cả đều tồn tại, là tự tồn tại nhưng sai biệt vô hạn; tự tánh sai biệt vô hạn,
giữa cái này và cái kia không thể nói là mối quan hệ gì; tự tánh của pháp là
như thế, lại dựa vào tác dụng của pháp nên nói là có biến đổi, thì không khỏi
mâu thuẫn vậy! Duyên khởi, theo Long thọ, tức là tánh không, là siêu việt số lượng,
tánh không siêu việt số lượng ấy không làm trở ngại tất cả cái khác. Cái không
không có tự tánh chẳng phải tồn tại riêng rẽ, cho nên có thể nói là dựa vào
duyên khởi nên chẳng phải đồng nhất, chẳng phải dị biệt, mà thành lập nên tất cả
pháp. Đây là triệt để tương phản, nhưng thông qua duyên khởi của vô tự tánh
không, là ba đời cùng một cái như đồng nhất, tất cả cái tồn tại trong ba đời đều
như huyễn (đây là thí dụ). Sự hữu của duyên khởi không có tự tánh, không chỉ tất
cả pháp là tồn tại [hữu], mà cái ngã cũng là tồn tại [hữu]. Thuyết nhất thiết hữu
bộ nói rằng pháp là có tự tánh tồn tại [tự tánh hữu], bổ-đặc-dà-la (pudgala,
sác thủ thú) là giả hữu [tồn tại giả]; Độc tử bộ nói rằng pháp là có tự tánh tồn
tại, cái ngã không thể diễn tả (anabhilāpya-pudgala) là thọ giả (upādāya-prajñapti),
cũng là tồn tại [hữu], dường như lại gần với hệ Độc tử bộ. Nhân đây liên tưởng
đến: phẩm Quán bổn trụ của Trung luận là phá Bà-tư-phất-đa-la – Độc tử bộ.18 Phẩm Quán tam tướng khi phá sanh sanh,
trụ trụ, diệt diệt, là phá Thuyết nhất thiết hữu bộ; nên luận Bát-nhã đăng nói:
Độc tử bộ chủ trương rằng, một pháp nào đó khi sanh khởi, thì ‘tổng cộng có 15
pháp cùng sanh khởi,(h)’19 cũng là phá Độc tử bộ. Đặc biệt là: Thuyết
nhất thiết hữu bộ nói rằng pháp thì có nhưng ngã thì không có, cho nên luận cứu
pháp nghĩa, chẳng lập nên kẻ tạo tác và kẻ chịu hậu quả, nên cũng không cần đả
phá. Trung luận nhiều lần phá ‘giả’ [chủ thể của hành động], như ‘kẻ thấy’,
‘kẻ nghe’, ‘kẻ bị nhiễm ô’, ‘kẻ tạo tác’, ‘kẻ chịu hậu quả’, ‘kẻ đi’, ‘kẻ hòa hợp’,
đây đều là đả phá cái ngã thật hữu. Độc tử bộ nói: “Bồn đại hòa hợp nên có pháp
là con mắt [nhãn pháp], như vậy 5 chúng (uẩn) hòa hợp nên có pháp là người (bổ-đặc-dà-la);”20 Trung luận đã đả phá quan điểm
đó một cách triệt để, thành lập nên ngã và pháp có theo duyên khởi mà không có
tự tánh, như nói: “Nhân vì theo nhiệp nên có kẻ tạo tác, nhân vì theo kẻ tạo
tác nên có nghiệp, nghĩa của nghiệp được thành lập như thế, ngoài ra không có lý
do nào khác nữa.(i)”21 Từ Trung luận lập ‘thọ giả’,
thành lập nên ngã và pháp không có tự tánh để nói, thì cùng với Độc tử bộ tương
phản, nhưng trái lại vô cùng tương tự.
Luận A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-ba-sa* nói:
“Hư không chẳng phải là sắc. … Chẳng thể thấy. … Chẳng có đối
ngại. … Vô lậu. … Vô vi. … Nếu không có hư không thì tất cả những vật tồn tại sẽ
không có chỗ dung chứa;… thì mọi nơi sẽ đều có chướng ngại.”
Hư không vô vi (ākāśa-asaṃskṛta) do Thuyết nhất
thiết hữu bộ, v.v., lập nên, là cái không gian tuyệt đối cùng với sắc pháp – vật
chất chẳng có chướng ngại nhau; là pháp vô vi chẳng sanh diệt, chẳng thuộc về vật
chất, mà làm chỗ nương tựa cho sự tồn tại và hoạt động của vật chất. Trong kinh
Bát-nhã thì chỉ dùng hư không để làm tỉ dụ cho tất cả pháp là không. Trung
luận nói: “Bởi vì có nghĩa không, nên các pháp được thành tựu,’ ngoài thí dụ
hư không của kinh Bát-nhã ra, hư không vô vi của Thuyết nhất thiết hữu bộ,
v.v., hẳn có tính gợi mở quan trọng. Kinh trên nói tất cả pháp là không, tánh
không không có sai biệt, tất cả đều dựa vào thế tục mà giả lập nên. Nhưng tánh
không đối với sự thành lập tất cả pháp, dường như không có quan hệ. Như ‘không
phá họi chân tế mà xây dựng nên các pháp,’ ‘dựa vào sự vô trụ nơi căn bản mà lập
nên tất cả pháp’, cũng chỉ là nơi nương dựa [y xứ], giống như quả địa cầu ở
trong không trung vậy. Nhưng hư không vô vi không chỉ là nơi nương dựa của sắc
pháp, mà vả lại không làm chướng ngại sắc pháp, cho nên có cái khả năng của hoạt
động của pháp có sắc. Dùng điều này để thí dụ và giải thích về tánh không,
không chỉ tất cả pháp đều không rời nơi tánh không, mà chính nhân vì không
không có tự tánh, nên tất cả dựa vào duyên khởi mới thành tựu khả năng. Cho nên
nghĩa đặc biệt của Trung luận là bởi có nghĩa của không (không có tự
tánh) nên tất cả được thành tựu, hư không vô vi hẳn có tính gợi mở.
‘Nghĩa không của tánh không, là nghĩa của duyên khởi, là
nghĩa của chẳng có tác dụng của không thì không có sự gì thành tựu,’22 chỉ là không có tự tánh. Tánh không
cũng là không có tự tánh, cho nên Trung luận nói: “Thật sự không có pháp
nào là chẳng phải không, thì sao có pháp không được?(j)”23 Vô tự tánh không, là tên gọi khác của
niết-bàn, trong sự thông đạt của Thánh trí, thoát khỏi tất cả danh, tướng, phân
biệt, là tất cả đều không thể diễn tả được. Kinh Bát-nhã nói: “Tất cả
pháp đều không thể diễn tả, tất tất cả pháp không thể diễn tả tướng của chúng
là không, là không (cũng) không thể diễn tả.” “Pháp ấy không thể diễn tả, Phật dùng
lực phương tiện cho nên phân biệt mà nói.”24
Không thể diễn tả nhưng không thể không nói, nên theo thế tục giả danh mà nói,
gọi là (tánh) không, gọi là chân như, v.v., ở đây không thể căn cứ vào danh mà
chấp trước tướng, cho nên Trung luận nói: “Không thì không thể diễn tả, cái
chẳng phải không cũng không thể diễn tả, cả hai [câu], chẳng cả hai [bất câu] đều
không thể diễn tả, chỉ dùng giả danh để nói.(k)”25
Nếu tất cả đều không thể diễn tả, thì vì sao phải nói là ‘không’ vậy? Đương
nhiên là ‘chỉ vì dẫn dắt chúng sanh cho nên dùng giả danh để nói.’ Khái niệm dẫn
dắt chúng sanh, như Trung luận*
nói:
“Bậc Đại Thánh thuyết về pháp không, là vì khiến lìa các kiến
chấp; nếu lại thấy có pháp không thật, điều ấy chư Phật không thể cứu được.”(l)
Bài tụng này là dựa vào kinh Đại bảo tích – ‘tất cả
các kiến chấp, đều dùng ‘không’ để được thoát khỏi; nếu khởi lên kiến chấp về
‘không’, thì không thể trừ bỏ được’ nên nói như thế.26 Chúng sanh bị mê hoặc nên chấp trước –
vô minh, căn bản là kiến chấp về ngã và ngã sở. Từ kinh A-hàm về sau, thì
không có và ngã sở tức là không. Tát-ca-da kiến (satkāya-dṛṣṭi)
là đứng đầu trong các phiền não, lìa kiến chấp về ngã và ngã sở, tức là lìa tất
cả kiến chấp mà được giải thoát. Vì nhằm lìa kiến chấp nên nói về không, nếu
như chấp trước vào không, thì đó là giống như dùng thuốc để trị bệnh, mà ngược
lại thuốc trở thành nguyên nhân gây bệnh, thì khó mà trị khỏi. Luận Đại trí
độ giải thích ‘tương ưng với không gọi là tương ưng đệ nhất’ là: “Không, là
tạng thâm áo của chư Phật trong mười phương, duy chỉ có một niết-bàn môn, không
còn môn nào khác có thể phá trừ các tà kiến hí luận được. Loại không tương ưng
này, không thể hoại, không thể phá, vì vậy gọi là đệ nhất.”27 Do vì giải thích kinh Bát-nhã,
đương nhiên sẽ hướng tới không nghĩa của sự thoát khỏi danh và tướng, luận Đại
trí độ nhiều lần28 nói:
“1. Trong pháp không, cũng không có tướng của pháp không, nếu
ông đắc được pháp không rồi mà vì tâm sanh chấp trước vào nó, nên sanh ra câu vấn
nạn này (tất cả đều không có). Pháp không này, chư Phật đều dùng tâm thương xót,
vì nhằm chặt đứt sự trói buộc của ái [ái kết], đoạn trừ tà kiến cho nên nói như
vậy.”
“2. Muốn khiến chúng sanh đắc được cái tất cánh không, xa rời
tâm chấp trước này. Tất cánh không này là chỉ vì phá bỏ tâm chấp trước cho nên
nói ra, chẳng phải là thật có cái không.”
“3. Nếu như vị tỳ-kheo chấp sự lớn tiếng, giơ tay nói rằng:
Mọi người hãy yên lặng! Đó là dùng âm thanh để ngăn chặn âm thanh, chẳng phải
tìm kiếm âm thanh vậy. Bởi vậy nên, tuy nói các pháp là không, chẳng sanh chẳng
diệt, đó là vì thương xót chúng sanh, nên tuy nói thế nhưng chẳng có thật như vậy.”
“4. (Thí dụ dùng ngón tay chỉ cho thấy mặt trăng) Chư Phật
và Hiền Thánh vì kẻ phàm phu nên thuyết pháp, nhưng kẻ phàm phu lại chấp trước
vào âm thanh ngữ ngôn mà không nhận lấy ý của bậc Thánh nhân, nên không đạt được
cái nghĩa chân thật; vì không đạt được cái nghĩa chân thật nên lại ở trong
(nghĩa) chân thật ấy sanh ra chấp trước.”
“5. Nên nhận lấy ý của người nói, chớ chấp trước vào ngữ
ngôn!”
Kinh Bát-nhã là chú trọng ở sự thực hành; Trung luận
cũng lấy sự quán về tất cả pháp, lìa kiến chấp để khế nhập vào tánh không làm
tông chỉ. Được sự tông trọng, nghiên cứu phát huy của người hậu học, trở thành
nhiều phái bất đồng. Từ sự khéo léo phân biệt, phân tích tinh nghiêm để nói,
thì đó là có công đức rất lớn. Nhưng nếu như quên đi ý của lời dạy, mà chuyên
chú vào sự phân định đúng sai trên mặt luận nghị, e rằng sẽ mất đi tông thú của
Long thọ vậy!
5.
Trung đạo – Trung luận và Trung quán
Phẩm Quán Tứ đế của Trung luận, từ chỗ duyên khởi (pratītya-samutpāda) tức là không (śūnyatā), cũng là giả danh (prajñāptiupādāya) về sau, tiếp theo nói: cũng là trung đạo (madhyamā-pratipad). Ở đoạn trên đã
từng nói đến: Duyên khởi của trung đạo là kinh A-hàm nói; đặc sắc của
kinh Bát-nhã là chỉ có giả danh (không có thật), bổn tánh không (prakṛti-śūnyatā) và tự tánh không (svabhāva-śūnyatā).
Tự tánh không là dựa theo tánh không thắng nghĩa để nói; đến giai đoạn cuối
cùng của Trung bản Bát-nhã mới dùng ‘từ sự hòa hợp của nhân duyên sanh
ra nên không có tự tánh’ để giải thích về tự tánh không. Trong tự tánh không đã
có ý nghĩa không có tự tánh cho nên là không, do vậy Long thọ xuất hiện, dùng một
cái mà xuyên suốt hết cả, nên nói rằng: “Pháp mà do nhiều nhân duyên sanh ra,
thì ta nói nó là không, cũng là giả danh, cũng là nghĩa của trung đạo’ – một
bài kệ vô cùng nổi tiếng trong Phật pháp Đại thừa.
Trung đạo là Phật pháp, cũng là nguyên tắc duy nhất mà hàng
đệ tử của Phật tuân theo. Tất cả hành vi, tất cả nhận thức, tối chính xác mà lại
tối thích hợp, chính là trung đạo, trung là không rơi vào hai bên (nhị biên - antadvaya)
– thiên lệch về bên tà, cực đoan. Lấy sự thực hành để nói, thì kinh Câu-lâu-sấu
vô tranh nói: đắm trước cái dục lạc thấp hèn là một bên, tự khổ hạnh không
dùng lợi dưỡng là một bên, ‘lìa hai bên này, thời có trung đạo’, trung đạo là Con
đường Thánh gồm 8 ngành [Bát chánh đạo].1
Lời dạy dỗ này là được nhiều Kinh, Luật nói đến. Như Phật dạy Tôn giả Nhị thập ức
nhĩ (Śrotraviṃśatikoṭī) rằng: Như ‘điều chỉnh dây
của đàn cầm, không căng, không chùn, điều chỉnh thích hợp được khoảng giữa đó,
thì có thể phối hợp ra âm thanh đáng yêu thích.’ Cho nên “tinh tấn quá mức thì
khiến tâm loạn động (trạo cử); không nỗ lực tinh tấn thì khiến tâm sanh giải
đãi. Vì vậy ngươi nên phân biệt vào lúc này thì nên quán sát tướng như thế này.”2 Tu hành cũng cần phải thích hợp cái
trung ấy, là cần phải quán sát thân và tâm của chính mình, khéo léo điều chỉnh.
Giống như luyện vàng vậy, không thể ‘luôn luôn thổi lửa’, ‘luôn luôn rưới nước’,
‘luôn luôn ngừng cả hai’, mà phải hoặc chỉ, hoặc cử, hoặc xả,(a) tùy thời thích hợp mà xử lý, đây mới
có thể ‘tâm ắt được chánh định, dứt sạch các hữu lậu.’3 Vì vậy, tu hành thành tựu vô tướng tâm
tam-muội (animitta-citta-samādhi)
ấy, ‘là không vọt lên cũng không chìm xuống,’ tâm trụ nơi bình đẳng.4 Đây là một nguyên tắc, ứng dụng vào sự nhận
thức, chính là duyên khởi do ‘ở nơi trung mà thuyết pháp’, pháp duyên khởi
không rơi vào hai bên – đồng nhất và dị biệt, đoạn diệt và thường hằng, hữu và
vô. Trung đạo chính xác mà thích hợp, không phải là ‘tách ra để tìm cái giữa’
[chiết trung], không phải là lập lờ nước đôi, càng không phải là sự điều hòa của
hai cực đoan, mà là thoát khỏi mọi kiến chấp, chấm dứt và diệt trừ tất cả hí luận
(prapañca). Từ nguyên tắc này để quán sát, chỉ có tên gọi mà không có thật thể,
tự tánh đều không của kinh Bát-nhã, chỉ là xiển minh đầy đủ về thuyết
duyên khởi trung đạo. Vì sao pháp duyên khởi là trung? Pháp duyên khởi là không
có tự tánh, cho nên chỉ có tên gọi giả (mà không có thật); pháp duyên khởi là
không có tự tánh, cho nên tức là không. Không, cho nên không có tự tánh, là
duyên khởi của giả danh; duyên khởi của giả danh, cho nên lìa các kiến chấp nên
được vắng lặng [không tịch]. Lấy giả danh tức không – ‘tánh không duy danh’ để
nói về trung đạo của duyên khởi, trung đạo là lìa hai bên [nhị biên], cũng
chính là tám phủ định mà Trung luận đã nói. Dựa vào Trung đạo – duyên khởi
gồm tám phủ định (giả danh), có thể thành lập tất cả pháp thế, xuất thế trong
thế tục đế; dựa vào trung đạo – tám phủ định (không) của duyên khởi, có thể
không rơi vào các kiến chấp, khế nhập vào nghĩa chân thật (thắng nghĩa). Cho
nên bài tụng rất nổi tiếng của Trung luận, có thể giải thích theo biểu đồ
như sau:


Tự
tánh không
Pháp duyên khởi…....(vô tự
tánh)………(bát bất) trung đạo
![]() |
![]() |
||
Có theo giả danh
Phần sau của Hạ bản Bát-nhã nhiều lần nói đến hai loại
sự thật [nhị đế], Trung luận cũng là dùng nhị đế để trình bày Phật pháp,
như quyển 4* nói:
“Chư Phật dựa vào nhị đế mà thuyết pháp cho chúng sanh. (Một
là) thế tục đế, và (hai là) đệ nhất nghĩa đế.”(b)
“Nếu không dựa vào tục đế thì không đắc được đệ nhất nghĩa đế.
Không đắc được đệ nhất nghĩa đế thì không thể đắc được niết-bàn.”(c)
Phật vì chúng sanh mà thuyết pháp, nên không thể không đặt để
nên nhị đế; nếu như không có cái ‘hai – nhị’ tương đối thì tất cả đều đã không
thể diễn tả được. Giống như sự hiểu biết của chúng sanh ở thế gian vậy, đúng
như thế, thì gọi là thế tục đế (lokasaṃvṛti-satya – sự thật đúng theo thế gian),
đế có nghĩa là không điên đảo. Đệ nhất nghĩa đế (paramārtha-satya) – thắng nghĩa đế, là nghĩa chân thật (tattva)
được nhận biết bởi bậc Thánh. Cái được nhận biết bởi chúng sanh ở thế gian, dù đó
là cái biết chung, cái thấy chung, đúng như thế, kỳ thật là mê hoặc điên đảo,
cho nên bị sanh tử không dừng. Tìm cầu Phật pháp theo thắng nghĩa, là phải ở
trong tất cả pháp của thế gian, lìa điên đảo mê hoặc để thông đạt được nghĩa
chân thật, đây là mục đích căn bản của sự đặt để nên nhị đế. Nhưng đệ nhất
nghĩa đế, thì danh, tướng, cái phân biệt bằng hư vọng của thế gian đều không thể
biểu đạt được, cho nên nói rằng thắng nghĩa đế là như vầy như vầy, vẫn là dựa
vào thế tục đế, dùng phương tiện mà nói. Như kinh Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật nói:
“Các tướng như vậy (tánh không) là tướng của bát-nhã ba-la-mật sâu xa. Phật vì
chúng sanh, nên dùng pháp thế gian để nói, chẳng phải là đệ nhất nghĩa.”5 “Nếu danh tự và nhân duyên hòa hợp đều
không có, thì ngữ ngôn và các sự việ của thế gian đều bị diệt; vì thế đế không
có, nên đệ nhất nghĩa đế cũng không có.”6
Thế tục đế là cái nhận thức bằng sự mê lầm của chúng sanh, tuy là lầm lạc,
nhưng lại là quan trọng, bọn phàm phu chúng ta chính là ở trong tình cảnh này vậy!
Cho nên phải nương tựa vào thế tục đế mới có thể biểu thị đệ nhất nghĩa đế; mới
có thể từ trong sự khám phá ra cái mê vọng của thế tục để thông đạt thắng nghĩa
đế. Dựa vào nhị đế của Trung luận để xem xét một bài kệ rất nổi tiếng của
Long thọ: Thế tục đế được nhận thức bằng sự mê vọng của chúng sanh, Phật nói là
duyên khởi; dựa vào duyên khởi nên lìa được biên kiến. Có thể lãnh hội và thấy
được nghĩa chân thật một cách chính xác, thì đây chính là trung đạo. Nhưng người
thông thường, những người theo các bộ phái Phật giáo đều không thể lý giải
duyên khởi đúng như thật, cuối cùng thảy đều sa vào khuôn sáo cũ của ‘dựa vào
thật mà lập nên giả’, không thể tự cứu mình được. Cho nên kinh Bát-nhã nói:
tất cả pháp đều là giả danh, thông đạt được tự tánh vốn vắng lặng [không tịch]
thì đây chính là thuyết nhị đế. Trung luận lập luận dựa theo duyên khởi:
pháp duyên khởi tức là tánh không, làm hiện rõ đệ nhất nghĩa; duyên khởi tức là
giả danh, làm sáng tỏ thế tục đế. Sự có theo giả danh như thế, tức là tánh
không, tánh không (cũng là dựa vào giả danh mà nói) không gây trở ngại cho giả
hữu, chính là trung đạo của duyên khởi lìa hai bên. Nói duyên khởi tức là
không, cũng là giả, cũng là trung (luận Hồi tránh nói rằng duyên khởi,
không, trung đạo là cùng một nội dung(d)),
nên chỉ là thuyết nhị đế. Thuyết tam đế gồm tức không, tức giả, tức trung,
không phải là luận ý của Long thọ.
Hướng dẫn cho người khác chuyển đổi mê lầm đế hướng đến giác
ngộ, dựa vào thế tục đế mà thuyết pháp: vì duyên khởi không có tự tánh cho nên
là không, vì là không cho nên nhờ vào duyên khởi mà có – thuyết trung đạo, có
thể khéo léo thiết lập nên mọi pháp, xa rời hết thảy kiến chấp, có thể nói là sự
thuyết giáo vô cùng thiện xảo vậy! Chẳng qua danh ngôn của thế tục là ‘hai’, là
không có tính quyết định; tánh tương đối vốn có của danh nghĩa, ở trong sự
thích ứng với chúng sanh, tùy thời, tùy nơi mà lưu hành, thì sẽ không tránh khỏi
dẫn đến sanh ra các lời bàn tán khác nhau, đó cũng là pháp thường tình của thế
gian. Căn cứ vào đệ nhất nghĩa đế, không, vô sanh, v.v., thì đó chỉ là một loại
phù hiệu, đều không ngang bằng với đệ nhất nghĩa. Như không là lấy sự lìa các
kiến chấp làm tác dụng, mà chấp trước vào cái không ấy thì cũng chẳng phải là
trung, cho nên nói: ‘không cũng lại không có’, ‘không cũng không thể nắm bắt được’.
Vả lại, trong thực hành sự quán về duyên khởi tức không, đúng như điều mà đoạn
kinh dẫn ở trên đã nói, phải tùy thời mà thích hợp khéo léo với cái trung ấy,
luận Đại trí độ nói như thế này:7
“1. Bát-nhã ba-la-mật lìa hai bên mà thuyết về trung đạo:
tuy không mà không chấp trước vào không, cho nên nó là có tội, phước; tuy nói
có tội, phước, nhưng chẳng sanh tà kiến chấp thường, cũng ở trong không mà
không có chướng ngại.”
“2. Bồ-tát trụ ở trong nhị đế mà thuyết pháp cho chúng sanh.
Không chỉ nói về không, không chỉ nói về có, mà còn vì lòng thương xót chúng
sanh cho nên nói là không, vì những chúng sanh đang chấp thủ về tướng của không
cho nên nói là có, ở trong hai chỗ có và không nhưng không đắm nhiễm.”
“3. Tướng có là một bên, tướng không là một bên, lìa hai bên
mà đi trong trung đạo, là thật tướng của các pháp.”
“4. Bát-nhã ba-la-mật ấy là thật tướng của tất cả pháp,… thường
là một bên, đoạn diệt là một bên, lìa hai bên này mà đi trong trung đạo. … Đây
là bát-nhã ba-la-mật, là một bên, đây chẳng phải là bát-nhã ba-la-mật là một
bên, lìa hai bên này mà đi trong trung đạo, đó gọi là bát-nhã ba-la-mật.”
1.2. là nói trung đạo cho chúng sanh. 1. là người nói nói về
có mà không sanh ra các kiến chấp về thường, v.v., nói về không mà không dính mắc
nơi không. 2. đối trị cái chấp thiên lệch của chúng sanh, vì những kẻ dính mắc
vào không ấy nên nói là có, vì những kẻ dính mắc về có cho nên nói là không.
Như vậy, đó mới là khéo thuyết trung đạo. 3.4. là ‘đi [thực hành] trong trung đạo’.
Trong sự thực hành bát-nhã, tướng có là một bên, tướng vô – không cũng là một
bên; phân chia ra đây đúng là bát-nhã và đây chẳng phải là bát-nhã cũng đều là
một bên. Thực hành bát-nhã là lấy sự không chấp trước làm nguyên tắc, nếu như
tâm có chấp trước liền khiến cho sự thực hành thiện, thực hành không này cũng đều
là ở một bên mà chẳng phải trung. Kinh Bát-nhã gọi đó là ‘thuận đạo pháp
ái sanh;(e)’8 thí dụ là ‘như ăn loại độc hỗn hợp’.9 Con đường giải thoát được Phật khai thị,
như không, vô sở hữu (ākiṃcanya),
vô tướng (animitta), kinh A-hàm sớm đã chỉ ra rồi: quán về vô ngã và vô
ngã sở - vô sở hữu, có sự thực hành quán này thì nhờ huệ để được giải thoát, đắm
nhiễm vào nó thì không giải thoát được, sẽ sanh vào vô sở hữu xứ (ākiñcanayāyatana); quán tất cả là
không có tướng, có thực hành pháp quán này thì nhờ huệ để được giải thoát, nếu
như đắm nhiễm thì không giải thoát được, sẽ sanh vào vô tưởng xứ - phi tưởng
phi phi tưởng xứ (naivasaṃjñānāsaṃjñāyatana).10 Nguyên lý và phương pháp là có chuẩn mực,
nhưng dù là thế tục, mà nếu có thể khéo léo thích ứng đúng với nó, thì đúng như
câu nói của người Trung quốc: ‘muốn vận dụng nó được hoàn hảo, thì phải để hết
tâm vào nó’ vậy. Các vị học giả nên chú ý đến tính thực tiễn của Phật pháp, không
chỉ là ‘Trung luận’ mà phải thêm là ‘Trung quán’ mới được!
6.
Như huyễn – duyên khởi tức không tức giả
Trung luận, ở sau mỗi phần luận phá sự chấp trước của
các bộ phái khác, đều nêu ra thí dụ để giả thích, thí dụ là một loại phương tiện
của sự giáo hóa trong Phật pháp. Trong kinh Ma-ha Bát-nhã, nói đến 10 thí
dụ là huyễn (māyā), v.v.1 Trung luận dựa vào kinh Bát-nhã,
nói ra các thí dụ như huyễn, hóa, v.v., là nhằm biểu thị tất cả pháp đều là
không, không có tự tánh, như quyển 4*
nói:
“Sáu loại: thể của sắc, thanh, hương, vị, xúc, và pháp, đều
(là không) giống như quáng nắng, như giấc mộng, như thành càn-thát-bà.”(a)
Sáu trần gồm sắc, v.v., có thể tóm thâu tất cả pháp được
chúng sanh nhận biết. Ở trong tâm trạng của chúng sanh thì tất cả thứ này dường
như đúng như thế, kỳ thật là hư vọng điên đảo, nên đều chẳng phải là đúng như vậy.
Đây là ý nghĩa của cái mà được thí dụ là như quáng nắng, như giấc mộng, v.v.;
những thí dụ này là thí dụ cho tất cả pháp đều là không. Trong ý thức của tập
quán từ vô thỉ, tuy ít nhiều biết là hư giả chẳng có thật, nhưng hết thảy đều
biết được ‘cái giả ắt phải dựa vào cái thật, ‘dựa vào cai thật mà lập nên cái
giả’. Đối với những thí dụ này, cũng sẽ giải thích như thế, như huyễn hóa thì
được chia làm hai, người huyễn hóa và sự hóa hóa. Xem như là sự huyễn hóa,
đương nhiên là hư giả chẳng có thật, nên người mà có thể biết được sự huyễn hóa
ấy thì không thể nói là không có. Cho nên được với thí dụ huyễn hóa này, phài
giải thích là sự huyễn hóa – cảnh, tướng đều là không, không có thật, cái biết
được sự huyễn hóa ấy – tâm thức, là chẳng phải không. Kinh Bát-nhã và
Long thọ lại không phải giải thích như thế, như Trung luận* nói:
“Giống như người được biến hóa ra bởi thần thông của đức Thế
tôn. Người được biến hóa ra này lại biến hóa ra thêm người khác nữa.[31] Như vậy,
người được biến hóa đầu tiên được gọi là người hành động, những hành động của
người được biến hóa ra ấy được gọi là nghiệp.[32] Các phiền não và nghiệp, người
hành động và quả báo đều là như huyễn, như giấc mộng, như quáng nắng, và cũng
như tiếng vang.[33]”(b)
Cái thí dụ từ người được biến hóa ra lại biến hóa ra người
khác nữa, chỉ là nhằm thuyết minh rằng, người được biến hóa và những sự việc mà
người ấy đã làm, tất cả đều giống như huyễn hóa. Các thí dụ như huyễn hóa,
v.v., là thí dụ cho pháp được sanh ra bởi nhiều duyên; tất cả pháp đều là duyên
khởi, cho nên tất cả đều là như huyễn hóa – tất cả đều không. Không, là không
có tự tánh, cũng là có theo giả danh, cho nên tất cả pháp đều giống như huyễn
hóa, v.v., không chỉ là thí dụ cho không, mà cũng là thí dụ cho những thứ có
theo thế tục. Luận Đại trí độ*
nói:
“Mười thí dụ này là giải thích về pháp không. … Tướng của
các pháp tuy là không, nhưng cũng có phân biệt ra pháp có thể thấy được, pháp
không thể thấy được. Ví như voi, ngựa và các loại sự vật huyễn hóa, tuy biết rằng
chúng không có thật nhưng sắc của chúng thì có thể thấy được, âm thanh của
chúng có thể nghe được, và sáu thứ tình cảm đối nhau nhưng không lẫn lộn. Các
pháp cũng như vậy, tuy là không, nhưng có thể thấy được, có thể nghe được,
không lẫn lộn với nhau.”
“Các pháp tuy là không nhưng có phân biệt, có cái không khó
hiểu, có cái không dễ hiểu. Nay lấy (huyễn hóa, v.v.) cái không dễ hiểu để thí
dụ (căn, cảnh, thức, v.v.) cho cái không khó hiểu. … Vì có người biết 10 thí dụ
này (là) pháp đánh lừa lỗ tai, con mắt, nhưng không biết rằng các pháp đều là
không, nên dùng (10 thí dụ) này để thí dụ cho các pháp. Nếu có người đối với 10
thí dụ này mà sanh tâm chấp trước không hiểu, đặt nhiều câu hỏi, cho đó là có
thật; 10 thí dụ này không có tác dụng, nên cần phải nói pháp môn khác.”
Các thí dụ như huyễn hóa, v.v., biểu thị tất cả pháp là vô tự
tánh không, nhưng ở trong thế tục đế, cái mà có thể thấy, có thể nghe thì sẽ
không lẫn lộn. Trong pháp thế tục, nhân - quả, thiện – ác, tà – chánh, là rõ
ràng không lẫn lộn, không phá hoại tướng của pháp ở thế gian. Trong sự nhận biết
của thế gian, biết được một số thứ là không, không có thật, như huyễn hóa,
v.v.; nhưng có một số thứ lại không dễ dàng biết được nó là không, cho nên nói
là cái không dễ hiểu – 10 thí dụ, tỉ dụ cho cái hư ngụy chẳng có thật mà khó hiểu
được. Thí dụ, phải lý giải ý nghĩa và mục đích của người nói ra thí dụ đó là
gì! Cho nên đối với những người ấy cho là không có sự huyễn mà có người biết được
sự huyễn ấy, không có cảnh trong mộng nhưng có tâm nằm mộng; có kẻ cho rằng cảnh
trong mộng cũng là có thật, chẳng qua là do sai lầm mà thôi. Không thể hiểu được
ý tứ của người nói ra thí dụ, mà chuyên phân tích, tra hỏi trên mặt ngữ nghĩa
văn tự, thì thí dụ đó cũng sẽ vô dụng vậy!
Tất cả pháp đều như huyễn như hóa, nhưng cũng có cái không
phải như huyễn như hóa chăng? Theo kinh văn, có thể nói như vậy, nhưng chẳng
qua là không phải liễu nghĩa. Kinh Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật* nói:
“Phật bảo Tu-bồ-đề: Nếu pháp mà có tướng sanh, diệt, thì chúng
đều biến hóa. … Nếu pháp mà chẳng có sanh, chẳng có diệt, thì là chẳng phải biến
hóa;… niết-bàn không có tướng lừa dối, là pháp chẳng phải biến hóa.”
“Các pháp đều bình đẳng, chẳng phải do Thanh văn làm ra, chẳng
phải Bích-chi Phật làm ra, chẳng phải Bồ-tát ma-ha-tát làm ra, chẳng phải chư
Phật làm ra, có Phật hay không có Phật, tánh của các pháp là luôn luôn không,
tánh không tức là niết-bàn. … Nếu Bồ-tát mới phát ý, nghe rằng tất cả pháp rốt
ráo đều là không, cho đến niết-bàn cũng đều như hóa, trong tâm ắt kinh sợ. Vì vị
Bồ-tát mới phát ý này, nên phân biệt (nói) cái mà có sanh diệt thì đều như hóa,
cái mà không có sanh không có diệt thì không phải như là hóa.”
Pháp có sanh diệt là
như hóa; pháp chẳng sanh chẳng diệt là chẳng phải như hóa, chính là niết-bàn.
Pháp Đại thừa cũng có nói như vậy, đó là giáo thuyết chưa liễu nghĩa được nói
cho các Bồ-tát mới học. Nếu nói đúng như sự thật, là tất cả pháp đều có tánh
bình đẳng (pháp pháp đều như vậy), tự tánh luôn luôn là không, tánh không chính
là niết-bàn, niết-bàn đương nhiên cũng là như hóa. Kinh Tiểu phẩm Bát-nhã
nói rằng tất cả pháp đều như huyễn như mộng: “Ta nói rằng niết-bàn cũng như huyễn,
như mộng. … Giả sử lại có pháp nào đó vượt hơn niết-bàn, thì Ta cũng nói nó là
như huyễn, như mộng.”2 Tánh của
tất cả pháp đều là không, tất cả pháp đều như huyễn, là thuyết rốt ráo của pháp
môn bát-nhã. Trong pháp Đại thừa, nếu như đối với tất cả pháp hữu vi (sanh diệt)
mà nói về tự tánh của vô vi, tự tánh của vô vi và pháp hữu vi là khác nhau, thì
đó cũng là nói chưa liễu nghĩa cho các vị mới học. Như kinh Ma-ha Bát-nhã
ba-la-mật* nói:
“Sao gọi là các pháp tướng của hữu vi?... Sao gọi là các pháp
tướng của vô vi? Nếu pháp mà không có sanh, không có diệt, không có trụ, không
có biến đổi, không có dơ, không có sạch, không có tăng, không có giảm, thì là tự
tánh của các pháp. Sao gọi là tự tánh của các pháp? Các pháp đều không có tánh
gì cả, đó là tự tánh của các pháp, đó gọi là các pháp tướng của vô vi.”
Đoạn kinh văn này phân biệt pháp tướng (tánh) của hữu vi và
pháp tướng (tánh) của vô vi, pháp tánh của vô vi chính là tự tánh (svabhāva) của các pháp. Tự tánh của
các pháp mà biệt lập với pháp hữu vi bên ngoài, là chẳng phải sanh chẳng phải
diệt, chẳng phải nhơ, chẳng phải sạch, chẳng phải tăng, chẳng phải giảm, cùng với
thắng nghĩa tự tánh mà Nhập Trung luận đã lập tương đương.3 Luận Đại trí độ* giải thích rằng:
“Pháp thiện hữu vi là những điều cần phải thực hành, pháp vô
vi là nơi y chỉ, còn lại là thuộc vô ký, pháp bất thiện thì cần phải xả bỏ nên
không nói đến; đây là điều mà Bồ-tát mới phát ý cần phải học. Nếu đắc được lực
phương tiện của bát-nhã ba-la-mật, thì được vô sanh nhẫn, thời không ái nhiễm
vào pháp đã thực hành, không ghét pháp mà đã xả bỏ; không rời pháp hữu vi mà có
pháp vô vi, vì vậy không y chỉ vào niết-bàn (vô vi, tự tánh của các pháp).”
Phật vì dẫn dắt chúng sanh, y theo nhị đế để thuyết pháp,
nói điều này, điều kia – sanh tử và niết-bàn, hữu vi và vô vi, duyên khởi và
tánh không. Kỳ thật, chính hữu vi là vô vi, chính sanh tử là niết-bàn, chính
duyên khởi là tánh không. Điều được Trung luận nói đến, chỉ là duyên khởi như
huyễn mà không có tự tánh này, tức là tánh không, tức là giả danh, là nói chỗ rốt
ráo của pháp môn bát-nhã.
1 Trung luận 1, T. 30, tr. 14.
2 Dẫn theo Bồ-đề đạo thứ đệ quảng luận 17, Hán
tạng giáo lý viện san, bổn 32 thượng. Hồi tránh luận do Tỳ-mục trí tiên,
v.v., dịch, T. 32, tr. 15a, chép: “Không, tự thể, nhân duyên – ba cái này đồng
nhất với thuyết trung đạo. Con xin quy mạng và đảnh lễ Phật – bậc Vô thượng đại
trí tuệ.”
* Trung luận
4, T.30, tr.33b.
3 Trung luận
4, T. 30, tr. 39b.
1 Tiểu phẩm
Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8, tr. 540b.
* Tiểu phẩm
Bát-nhã ba-la-mật kinh 9, T.8, tr.578c.
(a) Lịch pháp
minh không - 歷法明空, nêu lên
từng pháp rồi giải thích nó là không. ND
2 Tăng nhất A-hàm, (15) Hữu vô phẩm, T. 2, tr.
578a.
(b) Pāli: So pana saṅkhāro kiṃnidāno
kiṃsamudayo kiṃjātiko kiṃpabhavo? ‘Lại nữa, uẩn ấy [do] nhân gì, tập gì, sanh
gì, phát sanh gì?’ Saṃyuttanikāya, Khandhavagga, Pālileyyasuttaṃ, PTS: 3.94.
3 Tạp A-hàm 2, T. 2, tr. 14a.
(b) Skt:
‘pratyayo nāsti pañcamaḥ nikāyāntaraparikalpitasatpratyānā-mutpādaḥ
bhāvābhāvāśca eṣvevāntargatāḥ.’ Bhāvaviveka, Prajñāpra-dīpa-vṛtti.
‘Không có duyên thứ 5, các bộ phái khác cho rằng chính duyên mà đã khởi, hữu và
vô hữu [đều] bao hàm trong chúng [trong 4 duyên].’
4 Bát-nhã đăng luận 1, T. 30, tr. 55a.
5 Tạp A-hàm 11, T. 2, tr. 84b-c. Tương ưng
bộ, (12) Nhân duyên tương ưng, Nam truyền 13, tr. 36-38.
* A-tỳ-đạt-ma
Pháp uẩn túc luận 11, T. 26, tr. 505a.
(c) Tham khảo: Tạp
A-hàm 12, kinh số 296, 298, T. 2, 84b-c và 85a-b. Pāli: S.ii,25.
6 Tương ưng bộ, (12) Nhân duyên tương ưng, Nam
truyền 13, tr. 36.
7 A-tỳ-đạt-ma pháp uẩn túc luận 11, T. 26, tr.
505a.
8 Dị bộ tông luân luận, T. 49, tr. 15c, 17a.
* Tạp
A-hàm 14, T. 2, tr. 97b-c.
9 Tương ưng bộ, (12) Nhân duyên tương ưng, Nam
truyền 13, tr. 176-179. ‘Không đắc được thiền định’ nói là ‘không đắc được năm
thần thông’. Thần thông là nhờ thiền định mà phát sanh, cho nên tuy mỗi kinh
nói khác nhau nhưng nghĩa tổng quát thì tương đồng.
11 A-tỳ-đạt-ma
Đại tỳ-bà-sa luận 23, T. 27, tr. 116c.
12 Căn bản Thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da xuất
gia sự 2, T. 23, tr. 102c.
13 Tứ phần luật 33, T. 22, tr. 798c. Xích đồng
diệp bộ luật, Đại phẩm, Nam truyền 3, tr. 73. Ngũ phần luật 1, T.
22, tr. 110b. Đại trí độ luận 11, T. 25, tr. 136c.
* Tiểu phẩm
Bát-nhã ba-la-mật kinh 7, T. 8, tr. 567a-b.
14 Đại thừa Đạo can kinh, T. 16, tr. 824a. Thập
nhị môn luận, T. 30, tr. 159c-160a.
* Trung luận 3, T. 30, tr. 24a.
(d) Skt: pratītya yad yad bhavati na hi tāvat tad eva tat
| na cānyad api tat tasmān nocchinnaṃ nāpi śāśvatam ||10|| anekārtham
anānārtham anucchedam aśāśvatam | etat tal lokanāthānāṃ buddhānāṃ śāsanāmṛtam
||11||
(e) Skt:
vadatāṃ varam.
15 Tạp A-hàm 2, T. 2, tr. 12c.
(f) Tự giới
- 字界, Skt.
dhātu, tức là yếu tố gốc của một từ, hay còn gọi là từ căn (root). Từ từ gốc
này sẽ chia thành các hình thái khác theo ngữ pháp và thời thái, v.v.
16 A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận 23, T. 27, tr.
117c-118a.
(g) Skt:
Tena pratyayaṃ prāpya samudbhavaḥ pratītyasamutpādaḥ| Và: tāṃ tāṃ kāraṇasāmagrīṃ
prati ityānāṃ samavāyenotpādaḥ pratītya-samutpāda iti| Abhidharmakośa, tṛtīyaṃ kośasthānam,
lokanirdeśa.
17 A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận 9, T. 29, tr. 50b-c.
18 Dẫn theo:
Sơn Khẩu Ích và Chu Kiều Nhất Tai, Câu-xá
luận chi nguyên điển giải minh, tr. 215.
19 A-tỳ-đạt-ma Thuận chánh lý luận 25, T. 29,
tr. 481a.
20 Bát-nhã đăng luận 1, T. 30, tr. 51c.
21 Trung luận thích, Sơn Khẩu Ích dịch, tập 1,
tr. 7.
22 Thanh tịnh đạo luận, Nam truyền 64, tr.
156-163.
23 Đại trí độ luận 35, T. 25, tr. 318b.
24 Tương ưng bộ, Nhân duyên tương ưng, Nam truyền
13, tr. 37.
25 Tạp A-hàm 11, T. 2, tr. 84b.
(h) Nguyên
Hán là: 自作、他作、自他共作、非自非他
- 四作. Tự tác,
tha tác, tự-tha cộng tác, phi tự phi tha tác – tứ tác.
26 Tạp
A-hàm 12, T. 2, tr. 86a-b; và quyển 14, tr. 93c.
27 Trung luận 2, T. 30, tr. 16b-17a.
(i) Skt: na svato nāpi
parato na dvābhyāṃ nāpy ahetutaḥ | utpannā jātu vidyante bhāvāḥ kva cana ke cana ||1||
28 Trung luận 1, T. 30, 2b.
29 Bồ-đề đạo thứ đệ quảng luận, quyển 19 dẫn
kinh (Hán tạng giáo lý viện san, bổn 49 hạ). Bản cựu dịch của Hoằng đạo quảng
hiển tam-muội kinh, quyển 2 nói: ‘vì là duyên sanh nên nó là vô sanh’ là
cùng một nguyên bản mà bản dịch khác nhau. (T. 15, tr. 497b)
30 Trung luận 3, T. 30, tr. 20b.
(j) Skt: prahāṇaṃ
cābravīc chāstā bhavasya vibhavasya ca |
tasmān na bhāvo
nābhāvo nirvāṇam iti yujyate ||10||
31 Trung luận 4, T. 30, tr. 35b.
32 Từ ba loại tứ cú ở trước, chia ra thành 14 cái
không thể xác định (bất khả ký), như Tạp A-hàm 34, T. 2, tr. 245c. Bốn
loại kiến chấp, như ngã có sắc, v.v., như Trường A-hàm, (21) Phạm động
kinh, T. 1, tr. 92c, đã nói.
(k) Skt: skandhā na nānyaḥ skandhebhyo nāsmin skandhā na
teṣu saḥ | tathāgataḥ skandhavān na katamo’tra tathāgataḥ ||1||
33 Trung luận 4, T, 30, tr. 29c.
(l) Tướng và
khả tướng - 相與可相, Skt.
lakṣaṇa và lakṣya, tướng và cái bị xem (hoặc bị nhìn thấy) như là tướng. Các cặp
khác cũng tương tự, gồm chủ thể nhận thức và đối tượng được nhận thức.
(m) Skt:
śūnyatāyām adhilayaṃ yaṃ punaḥ kurute bhavān.
34 Trung luận 4, T. 30, tr. 33a.
35 Trung luận,
T. 30: 1. Quyển 2, tr. 13a; 2. Quyển 4, tr. 32a; 3. Quyển 4, tr. 37a; 4. Quyển
4, tr. 34c.
(n) Skt: pratītya kārakaḥ karma taṃ pratītya ca kārakam |
karma pravartate nānyat paśyāmaḥ siddhikāraṇam ||12||
(o) Skt: nātmā ca śuci nityaṃ ca sukhaṃ ca yadi vidyate |
anātmā ’śucy anityaṃ ca naiva duḥkhaṃ ca vidyate ||22||
(p) Skt: evaṃ nānya
upādānān na copādānam eva saḥ | ātmā nāsty anupādāno nāpi nāsty eṣa niścayaḥ ||8||
(q) Skt: asaṃprāptasya ca prāptir duḥkhaparyantakarma ca
| sarvakleśaprahāṇaṃ ca yady aśūnyaṃ na vidyate ||39||
(r) Skt: sadbhūtaḥ kārakaḥ karma sadbhūtaṃ na karotyayam
| kārako nāpy asadbhūtaḥ karmāsadbhūtam īhate ||1||
(s) Skt: yathā nirmitakaṃ śāstā nirmimīta rddhisaṃpadā |
nirmito nirmimītānyaṃ sa ca nirmitakaḥ punaḥ ||31|| tathā nirmitakākāraḥ kartā
yat karma tat kṛtam | tadyathā nirmitenānyo nirmito nirmitas tathā ||32|| kleśāḥ
karmāṇi dehāś ca kartāraś ca phalāni ca | gandharvanagarākārā marīcisvapnasaṃnibhāḥ
||33||
(t) Skt: rūpaśabdarasasparśā gandhā dharmāś ca kevalāḥ |
gandharva-nagarākārā marīcisvapnasaṃnibhāḥ ||8|| aśubhaṃ vā śubhaṃ vāpi kutas
teṣu bhaviṣyati | māyāpuruṣakalpeṣu pratibimbasameṣu ca ||9||
(u) Skt:
skandhānām eṣa saṃtāno yasmād dīpārciṣām iva |
37 Trung luận 4, T. 30, tr. 35b.
38 Trung
luận 4, T. 30, tr. 30c.
(v) Skt:
svabhāvataś ca śūnye ’smiṃś cintā naivopapadyate |
(w) Skt:
prapañcayanti ye buddhaṃ prapañcātītam avyayam |
(x) Skt: sarvopalambhopaśamaḥ prapañcopaśamaḥ śivaḥ | na kva cit kasyacit kaścid dharmo buddhena deśitaḥ ||24||
39 Trung luận 4,
T. 30, tr. 30c; và quyển 4, tr. 36b.
* Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T.
8, tr. 537b-c.
1 Văn của
kinh Tiểu phẩm cùng với văn của phần
thứ 5 của kinh Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa
do Huyền trang dịch rất gần nhau, như quyển 556 (T. 7, tr. 865c-866b. Phần thứ
4 cũng gần nhau, đã nói rõ ‘chỉ có tên gọi giả’, như quyển 538 (T. 7, tr.
764a). Quyển 1 của kinh Phật thuyết Phật
mẫu xuất sanh tam pháp tạng Bát-nhã ba-la-mật đa, gần với phần thứ 4, nhưng
nói ‘vô định vô trụ’ là: “Nhưng danh tự ấy không có trụ xứ, chẳng phải không có
trụ xứ, không có tính xác định, không có sự không xác định’ (t. 8, tr. 587c),
cùng với Phạn bản hiện còn tương đồng. Đây là tham chiếu Trung bản Bát-nhã (thông thường gọi là Đại phẩm),
‘danh tự này chẳng trụ cũng chẳng phải chẳng trụ’ nhưng có sự thêm vào; quyển 3
của kinh Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật (T.
8, tr. 234a). Xem thêm: Đại Bát-nhã
ba-la-mật đa kinh (phần thứ 2) 409, T. 7, tr. 47a.
2 Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 556 (phần thứ
5), T. 7, tr. 566b, nói: ‘hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc nhiễm, hoặc tịnh.’
3 Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 2, T. 8, tr. 231a. Tham chiếu: Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 406 (phần thứ 2), T. 7, tr. 30a.
* Ma-ha bát-nhã na-la-mật kinh 2, T. 8,
tr. 231a.
4 Đại trí độ luận 41, T. 25, tr. 358b.
5 A. Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 2, T. 8, tr.
231a. B. Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 11 (phần đầu), T. 5, tr. 58b. C.
Phần thứ 2, quyển 406, T. 7, tr. 30a. D. Phóng quang Bát-nhã ba-la-mật kinh
2, T. 8, tr. 11c. E. Quang tán Bát-nhã ba-la-mật kinh 2, T. 8, tr.
163a. F. Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 482 (phần thứ 3), T. 7, tr. 448a.
* A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận 9, T. 27,
tr. 42a-b.
6 Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 482 (phần thứ
3), T. 7, tr. 447c.
7 A-tỳ-đạt-ma Pháp uẩn túc luận 11, T. 26, tr.
505a.
8 Tạp A-hàm 13, T. 2, tr. 92c.
9 A-tỳ-đạt-ma Thuận chánh lý luận 28, T. 29,
tr. 498b-c.
10 Đại trí độ luận 41, T. 25, tr. 358c.
11 Trung luận 4, T. 30, tr. 33b.
* Tam pháp độ luận, quyển trung, T. 25,
tr. 24a-b.
12 Xin xem tác phẩm của tôi: Thuyết nhất thiết hữu
bộ vi chủ đích luận thư dữ Luận sư chi nghiên cứu, tr. 458-460.
(b) Tông phái gốc của Độc tử bộ là Thuyết nhất thiết
hữu bộ. Xem Dị bộ tôn luân luận, T.
49, tr. 15b11-12.
13 Dị bộ tông luân luận, T. 49, tr. 16c.
* Tam-di-để bộ luận, quyển trung, T. 32,
tr. 466a-b.
(c) Skt:
‘Pratītyasamutpāda iti śūnyatā yā sā prajñaptirupādāya, pratipatsāiva
madhyamā’. Tánh không ấy là duyên khởi, bởi vì nó là cái mà được đặt bày nên,
nó cũng chính là trung đạo.
14 Bát-nhã đăng luận 14, T. 25, tr. 126b.
15 Dị bộ tông luân luận, T. 49, tr. 16a.
16 Nhiếp Đại thừa luận bổn, quyển thượng, T.
31, tr. 135a, nói: ‘Trong ấy, các pháp y chỉ vào a-lại-da thức mà sanh khởi, đó
gọi là phân biệt tự tánh duyên khởi.’
(e) Bất khả
thuyết - anabhilāpya - 不可說, là không thể diễn tả hay
khẳng định.
1 Trung luận 4, T. 30, tr. 33b.
(a) Skt:
pracakṣmahe – chúng tôi nói.
2 Trung luận 3, T. 30, tr. 21b.
3 Như Trung luận 4, phẩm Quán mười hai nhân
duyên, T. 30, tr. 36b-c, đã nói.
4 Bồ-đề đạo thứ đệ quảng luận 17 dẫn văn, Hán
tạng giáo lý viện san, bổn 33a. Cựu dịch Hồi tránh luận, T. 32, tr. 18a.
(b)
Skt: sata
eva pratiṣedho yadi śūnyatvaṁ nanvapratiṣiddhamidam| pratiṣedhayate hi bhavān
bhāvānāṁ niḥsvabhāvatvam||62|| Vigrahavyāvartanī.
5 Trung luận 4, T. 30, tr. 33b.
6 Như Đại trí độ luận 37, T. 25, tr. 331b.
7 Trung luận, T. 30, quyển 1, tr. 2b; quyển 3,
tr. 19c; quyển 4, tr. 30a; quyển 4, tr. 33b.
9 Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 538 (phần thứ
4), T. 7, tr. 764c. Và quyển 55 (phần thứ 5), tr. 866c.
* Trung luận 3, T. 30, 19c, 20b.
(c) Skt: na saṃbhavaḥ svabhāvasya yuktaḥ pratyayahetubhiḥ
| hetupratyayasaṃbhūtaḥ svabhāvaḥ kṛtako bhavet ||1||
(d) Skt: svabhāvaḥ kṛtako nāma bhaviṣyati punaḥ katham |
akṛtrimaḥ svabhāvo hi nirapekṣaḥ paratra ca ||2||
(e) Skt: yady astitvaṃ prakṛtyā syān na bhaved asya
nāstitā |
prakṛter anyathābhāvo na hi jātūpapadyate ||8||
10 Trung luận 4, T. 30, tr. 33a. Hồi tránh
luận, T. 32, tr. 15a.
(f) Skt: sarvaṃ ca yujyate tasya śūnyatā yasya yujyate |
sarvaṃ na yujyate tasya śūnyaṃ yasya na yujyate ||14|| Mūlamadhyamakakārikāḥ.
(g) Skt: prabhavati ca śūnyateyaṁ yasya prabhavanti tasya sarvārthāḥ|
prabhavati na tasya kiṁ na bhavati śūnyatā yasyeti||71|| Vigrahavyāvartanī
* A-tỳ-đạt-ma
pháp uẩn túc luận 11, T. 26, tr. 505a.
11 Tham duyệt: Tạp A-hàm 12, T. 2, tr. 84b.
12 Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 402 (phần thứ
2), T. 7, tr. 8c.
13 Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 17, T. 8, tr.
344a.
14 A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận 2, T. 27, tr.
8b.
15 A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận 76, T. 27, tr.
395c-396a.
16 A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận 39, T. 27, tr.
200a-b.
17 Luận sự, Nam truyền 57, tr. 212-218. Và Nam
truyền 58, tr. 413-414.
* Đại
trí độ luận 32, T. 25, tr. 297b-c, 298c.
18 Bát-nhã đăng luận 6, T. 30, tr. 82b.
(h) Skt:
evaṃ dharmaḥ ātmanā pañcadaśa utpadyate. Prajñāpradīpa, tr. 114.
19 Bát-nhã đăng luận 5, T. 30, tr. 75c.
20 Đại trí độ luận 1, T. 25, tr. 61a.
(i)
Skt: pratītya kārakaḥ karma taṃ pratītya ca kārakam | karma pravartate nānyat
paśyāmaḥ siddhikāraṇam ||12||
21 Trung luận 2, T. 30, tr. 13a.
* A-tỳ-đạt-ma
Đại tỳ-ba-sa luận 15, T. 27, tr. 388b-c.
22 Bồ-đề đạo thứ đệ quảng luận 17, Hán tạng
giáo lý viện san bổn 31 hạ.
(j) Skt: na
kiṃcid asty aśūnyaṃ ca kutaḥ śūnyaṃ bhaviṣyati ||7||
23 Trung luận 2, T. 30, tr. 18b.
24 Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 17, T. 8, tr.
345c.
(k) Skt: śūnyam iti na vaktavyam aśūnyam iti vā bhavet |
ubhayaṃ nobhayaṃ ceti prajñaptyarthaṃ tu kathyate ||11||
25 Trung luận 4,
T. 30, tr. 30b.
* Trung
luận 2, T. 30, tr. 18c.
(l) Skt: śūnyatā sarvadṛṣṭīnāṃ proktā niḥsaraṇaṃ jinaiḥ
|yeṣāṃ tu śūnyatādṛṣṭis tān asādhyān babhāṣire ||8||
26 Đại Bảo tích kinh, (43) Phổ minh Bồ-tát hội,
T. 11, tr. 634a.
27 Đại trí độ luận 37, T. 25, tr. 334c.
28
Đại trí độ luận, T. 25: 1. Quyển 20, tr. 207b. 2. Quyển 63, tr. 508c.
3. Quyển 6, tr. 105c. 4. Quyển 43, tr. 375a. 5. Quyển 35, tr. 318c.
1 Trung A-hàm, (169) Câu-lâu-sấu vô tranh
kinh, T. 1, tr. 701b-c. Trung bộ, (139) Vô tranh phân biệt kinh, Nam
truyền 11 hạ, tr. 320-321.
2 Tạp A-hàm 9, T. 2, tr. 62c. Trung A-hàm,
(123) Sa-môn nhị thập ức kinh, T. 1, tr. 612a-b. Tăng chi bộ, phẩm 6
pháp, Nam truyền 20, tr. 129.
(a) “Chỉ tướng 止相, cử tướng 舉相, xả tướng 捨相. Pāli, A. i.
257: samādhinimittaṃ, định tướng, paggahanimittaṃ, cần (tinh tấn)
tướng, upekkhānimittaṃ, xả tướng.” Tham khảo: Tạp A-hàm, tập 2,
Thích Đức Thắng dịch Việt, Nxb Phương Đông, Sài gòn, 2010, tr. 694, chú thích
10.
3 Tạp A-hàm 47, T. 20, tr. 342a. Tăng chi bộ,
phẩm 3 pháp, Nam truyền 17, tr. 422-423.
4 Tạp A-hàm 20, T. 2, tr. 145a-146a. Tăng
chi bộ, phẩm 9 pháp, Nam truyền 22 thượng, tr. 126-127.
* Trung
luận 4, T. 30, tr. 32c-33a.
(b) Skt: dve satye samupāśritya buddhānāṃ dharmadeśanā |
lokasaṃvṛtisatyaṃ ca satyaṃ ca paramārthataḥ ||8||
(c) Skt: vyavahāram anāśritya paramārtho na deśyate |
paramārtham anāgamya nirvāṇaṃ nādhigamyate ||10||
5 Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 14, T. 8, tr.
325b.
6 Đại trí độ luận 42, T. 25, tr. 365a.
(d) Skt: “yaḥ śūnyatāṁ pratītyasamutpādaṁ
madhyamāṁ pratipadam-anekārthām.” Nāgārjuna, Vigrahavyāvartanī.
7 Đại trí độ luận: 1. Quyển 70, T. 25, tr.
551a; 2. Quyển 91, tr. 703b; 3. Quyển 61, t. 492c; 4. Quyển 43, tr. 370a-b.
(e) Skt: “iyam
āyuṣman śāriputra bodhisattvasya mahāsattvasya ānulomikī dharmatṛṣṇā āmaḥ.” Pañcaviṃśatisāhasrikā Prajñāpāramitā. Chữ sanh (生), Skt. āma
(adj), có nghĩa là chưa chín, chưa được nấu, chưa được rèn giũa, bệnh tật, v.v.
Như vậy, ‘thuận đạo pháp ái sanh - 順道法愛生’ được hiểu là, vị Bồ-tát ma-ha-tát mà học tập
bát-nhã ba-la-mật chưa thuần thục, chưa thực hành đúng phương pháp của bát-nhã
ba-la-mật (như đoạn kinh này đã diễn tả) thì sự thực hành của vị ấy là thực
hành bằng tâm yêu thích của mình đối với Phật pháp mà chưa hiểu rõ được phương
pháp đúng của bát-nhã ba-la-mật.
8 Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 3, T. 8, tr.
233b.
9 Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 11, T. 8, tr.
299c.
10
Trung A-hàm, (15) Bất động đạo kinh, T. 1, tr. 542c-543a. Trung
bộ, (106) Bất động lợi ích kinh, Nam truyền 11 thượng, tr. 342-345.
1 Ma-ha
Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T.8, tr. 217a.
* Trung
luận 4, T. 30, tr. 31b.
(a) Skt:
rūpaśabdarasasparśā gandhā dharmāś ca kevalāḥ | gandharvanagarākārā
marīcisvapnasaṃnibhāḥ ||8||
* Trung
luận 3, T. 30, tr. 23b-c.
(b) Skt: yathā nirmitakaṃ śāstā nirmimīta rddhisaṃpadā |
nirmito nirmimītānyaṃ sa ca nirmitakaḥ punaḥ ||31|| tathā nirmitakākāraḥ kartā
yat karma tat kṛtam | tadyathā nirmitenānyo nirmito nirmitas tathā ||32|| kleśāḥ
karmāṇi dehāś ca kartāraś ca phalāni ca | gandharvanagarākārā marīcisvapnasaṃnibhāḥ
||33||
* Đại
trí độ luận 6, T. 25, tr. 101c, 105c.
* Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 26, T. 8,
tr. 416a.
2 Tiểu
phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8, tr. 540c.
* Ma-ha
Bát-nhã ba-la-mật kinh 10, T. 8, tr. 292b.
3 Nhập
Trung luận 5, Hán tạng giáo lý viện san, bổn 22-23.
* Đại
trí độ luận 59, T. 25, tr. 480c.