CHƯƠNG 10. PHÁP MÔN BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT
Tiết 2.
Nguyên thỉ Bát-nhã
Mục 1.
Luận định về Bát-nhã nguyên thỉ
Trong những trình
bày ở mục trên, có thể thấy rằng 2 bộ được truyền xưa nhất – Tiểu phẩm và Đại
phẩm, 3 bộ - Thượng phẩm, Trung phẩm, Hạ phẩm tương đương với 5 phần của kinh Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa do Huyền Trang
dịch, chiếm 94 trong 100 phần của toàn kinh, thật sự là bộ phận chủ yếu của
kinh Bát-nhã. Năm phần đầu (cũng chính là 3 bộ hoặc 2 bộ theo cổ truyền) của
kinh Đại Bát-nhã, từ 100.000 bài tụng
đến 4.000 bài tụng, chi tiết hay ngắn gọn về văn tự có khoảng cách tương đối
xa, nhưng trên mặt nội dung, các bộ ấy lại có một bộ phận chung nhau. Bộ phận
nhất trí chung ấy, trong quá trình biên tập ra kinh Bát-nhã, suy đoán là bộ phận
nguyên thỉ của kinh Bát-nhã, đều nhận được sự xem trọng! Giữa 2 bộ, 3 bộ, 5 phần
ấy, rốt cục những bộ nào có bộ phận chung? Bây giờ căn cứ vào bản Phóng quang của Trung phẩm Bát-nhã, bản
Hán dịch của Hạ phẩm Bát-nhã, so sánh như sau:
Căn cứ theo bản
Phóng quang của Trung phẩm Bát-nhã để nói, thì toàn kinh có thể chia thành 3 bộ
phận: phần đầu, phần giữa, phần cuối. ‘Bộ phận trung gian’ là từ phẩm Hành, thứ
9 đến phẩm Vô tận, thứ 68, gồm 60 phẩm, chiếm 2 phần 3 của toàn kinh. Bộ phận
này tương đương (chi tiết hay ngắn gọn khác nhau) với 26 phẩm đầu của bản Hán dịch,
chỉ khi luận đến Đại thừa, Trung phẩm Bát-nhã mới nhiều hơn phẩm Vấn Ma-ha-diễn,
phẩm Đà-lân-ni, phẩm Trị địa – 3 phẩm. Một bộ phận này là bộ phận mà Trung phẩm
Bát-nhã và Hạ phẩm Bát-nhã có thể tương đồng nhau. Phần đầu từ phẩm Phóng
quang, thứ 1 đến phẩm Thiệt tướng, thứ 8, gồm 8 phẩm, là những phẩm mà Hạ phẩm
Bát-nhã không có. Phần cuối của Trung phẩm Bát-nhã, từ phẩm Lục độ tương nhiếp,
thứ 69, đến phẩm Chư pháp diệu hóa, thứ 87, gồm 19 phẩm, là bộ phận chủ yếu của
phần cuối, cũng là những phẩm mà Hạ phẩm Bát-nhã không có. Ngược lại, Hạ phẩm
Bát-nhã có phẩm Tùy, thứ 27, Trung phẩm Bát-nhã cũng không có phẩm này. Ba phẩm
cuối của Trung phẩm Bát-nhã là nêu lên câu chuyện về Tát-đà-ba-luận (Sadāprarudita) cầu học Bát-nhã, làm tấm gương khuyến khích cầu học Bát-nhã. Bộ phận khuyến
học và chúc lụy lưu thông cuối cùng, phù hợp với 3 phẩm cuối của bản Hán dịch,
nhưng không phải là bộ phận chủ thể của pháp môn Bát-nhã. Trong khi so sánh hai
bản kinh này, thấy rằng phần chung của 2 bản có thể xem là bộ phận cơ bản của
kinh Bát-nhã, là ‘bộ phận trung gian’.
Kinh Bát-nhã có Thượng
phẩm, Trung phẩm, Hạ phẩm. Theo kinh Đại
Bát-nhã ba-la-mật-đa được dịch vào đời Đường, thì Trung phẩm lại có 2 bản,
Hạ phẩm cũng chia thành 2 bản, rốt cục mối quan hệ giữa chúng là như thế nào? Quyển
1 của Phật mẫu Bát-nhã ba-la-mật-đa viên
tập yếu nghĩa luận thích (T. 25, tr. 902b) nói:
“Giờ
đây chỉ nói đến bản có 8000 bài tụng là vì những người nghe có cái ý lạc tối thắng
kia cần được nghe, vì vậy số bài tụng ngắn gọn… Chẳng phải ý nghĩa trong pháp
bát-nhã ba-la-mật-đa có sự sai biệt, chỉ vì căn tánh có phẩm chất yếu ớt, phẩm
chất trung bình, phẩm chất cao nên tùy theo sự muốn tiếp thọ của họ nên đức Thế
tôn vì lý do đó mà nói tóm lược (8.000 bài tụng) bát-nhã ba-la-mật-đa này.”
Thượng phẩm,
Trung phẩm và Hạ phẩm của kinh Bát-nhã có sự tăng thêm hoặc giảm bớt về số kệ tụng,
đó đều là do đức Thế tôn nhằm thích ứng với căn tánh của thính chúng. Như vậy,
Thượng phẩm, Trung phẩm, Hạ phẩm, 5 phần đầu của kinh Đại Bát-nhã đều là do Phật tùy theo căn cơ mà tuyên thuyết khác
nhau. Tại Trung Quốc, như Viên Trắc, trong bài Tựa cho phần thứ 2 của kinh Đại Bát-nhã, nói: “Sự nghi ngờ mà
nhiều thì phải dạy dỗ từ chi tiết, mới ngộ thì càng phải dốc lòng học hỏi. Cho
nên chỉ lần nữa núi Linh Thứu, gõ cửa trở lại nơi bậc Long tượng.”1 Lời tựa cho phần thứ 4, nói: “E rằng
cái tình ngựa đồng hoang chưa dứt, nên cuộc hội đàm nơi Linh Thứu lại mở.2 Các từ ‘lần nữa’, ‘trở lại’, ‘lại’ đều
biểu thị việc nói đi nói lại. Thượng phẩm, Trung phẩm, Hạ phẩm, 5 phần đầu của
kinh Đại Bát-nhã đều là do Phật nói
đi nói lại, đây là giải thích phổ biến thời xưa.
Ở Trung Quốc thời xưa có một truyền thuyết rằng, Hạ phẩm
(xưa gọi là Tiểu phẩm) là từ Trung phẩm (xưa gọi là Đại phẩm) rút tỉa (tiết lục)
ra, như Lời tựa cho kinh Đạo hành của
Đạo An trong quyển 7 của Xuất Tam tạng ký
tập (T. 55, tr. 47b), nói:
“Sau khi Phật nhập niết-bàn, bậc cao sĩ người ngoại quốc
đã sao chép 90 chương (của Đại phẩm) thành phẩm Đạo hành… Nhưng kinh đã được rút tỉa để hợp thành một bản có tôn chỉ
riêng,… [Đạo hành] từ đầu chí cuối có
lẽ còn có ý nghĩa sâu kín. Các bậc Hiền ngày xưa khi bàn luận về nó thì luôn
luôn gặp sự trở ngại… Giả sử không có Phóng
quang (Đại phẩm) thì do đâu mà hiểu được kinh này!”
Bài tựa cho Đại-Tiểu
phẩm đối tỉ yếu sao do Chi Đạo Lâm viết, cũng nói: “Được nghe rằng người rút
tỉa ra để thành Tiểu phẩm là đạo sĩ… Từng được nghe các bậc học giả đi trước
cùng truyền lại rằng: Sau khi Phật nhập niết-bàn, Tiểu phẩm được rút tỉa ra từ
trong Đại phẩm.”3 ‘Cao sĩ’, ‘đạo sĩ’ đều
chỉ cho tỳ-kheo xuất gia. Tiểu phẩm không phải do Phật nói lặp lại, mà là người
sau rút tỉa ra từ trong Đại phẩm. Khi rút tỉa có thay đổi ít nhiều nên tự nó trở
thành một bộ mới, nên Đạo An cũng nói thẳng đó là “do bậc cao minh ngoại quốc
biên soạn.”4 Truyền thuyết nói Tiểu
phẩm được rút tỉa ra từ trong Đại phẩm, có khả năng là kết quả của việc so sánh
hai bản mà được. Bản Hán dịch ‘từ đầu chí cuối còn có ý nghĩa sâu kín’ là vì đoạn
mở đầu và tiếp theo của kinh văn có nhiều chỗ không rõ ràng, nhưng Đại phẩm lại
không có chuyện đầu đuôi hay những đoạn không rõ ràng này, vì thế Đạo An nói:
‘Giả sử không có Phóng quang (Đại phẩm)
thì do đâu mà hiểu được kinh này!’ Đạo An là người coi trọng Đại phẩm. Chi Đạo
Lâm đã so sánh Đại phẩm và Tiểu phẩm, phát hiện ra nhiều chỗ bất đồng, như Bài tựa cho Đại-Tiểu phẩm đối tỉ yếu sao
trong quyển 8 của Xuất Tam tạng ký tập
(T. 55, tr. 56a-b) nói:
“Hoặc có đoạn Tiểu phẩm có nhưng Đại phẩm thì không chép;
hoặc có đoạn Đại phẩm đầy đủ thì Tiểu phẩm lại thiếu.”
“Qui cách trích dẫn của Tiểu phẩm đôi khi có nhiều khác
biệt: hoặc cùng một việc nhưng đảo ngược từ ngữ mà không trái với tôn chỉ; hoặc
lấy đoạn quan trọng ở đầu, bỏ đoạn sau cùng của nó; hoặc thuận theo thứ tự của
sự việc nhưng đảo ngược đầu đuôi; hoặc rút tỉa chỗ sâu xa cần thiết được phân
tán trong các phẩm.”
Chi Đạo Lâm thì chủ trương ‘giáo pháp chẳng phải chỉ có một
đường, xử lý vật thì không phải một phương pháp cố định’, Đại phẩm và Tiểu phẩm
đều có tính thích ứng độc đáo của chúng. Nhưng mà tiểu phẩm rốt cục vẫn là căn
cứ vào Đại phẩm để rút tỉa ra, cho nên nói: “Các bậc hiểu rộng đi trước đã rút
tỉa ra kinh này, lấy bản Hồ làm gốc; Tiểu phẩm tuy là bản được rút tỉa ra nhưng
vẫn lấy Đại [phẩm] làm tông. Nghiên cứu bản Hồ thì có thể sáng tỏ nghĩa lý, lấy
bản Đại [phẩm] làm chứng thì có thể kiểm tra được bản Tiểu [phẩm].”5 Cũng chính vì thế, ông đã phê bình những
học giả Trung Quốc đối với việc “chưa thấy Đại phẩm mà muốn dựa vào Tiểu phẩm,
đem ý của mình giải thích ý nghĩa của nó.” Đây là kết luận tất nhiên giống với
Đạo An, phải căn cứ vào Đại phẩm để giải thích thông suốt Tiểu phẩm, mới có thể
khẳng định là từ Đại phẩm rút tỉa ra thành Tiểu phẩm.
Một bộ phận học giả Nhật Bản cận đại đã kế thừa truyền
thuyết từ Đại phẩm rút tỉa ra thành Tiểu phẩm, làm nghiên cứu chi tiết và hợp
lý hơn, mở rộng và bổ sung thêm để bàn về 5 phần đầu của kinh Đại Bát-nhã, như Khái quát kinh Đại Bát-nhã của Watanabe Kaikyoku (渡邊海旭), Các vấn đề của kinh Bát-nhã của Hikata
Ryūshō (干潟龍祥), Liên quan về nguyên hình của kinh Bát-nhã của
Shiomi Tetsudō (鹽見徹堂) đều cho
rằng đầu tiên là rút tỉa ra phẩm đầu của Tiểu phẩm, thứ đến rút tỉa ra các phẩm
còn lại. Ngoài ra, họ nghiên cứu ra rằng ở trong kinh điển, bộ phận từ phẩm Tam
giả đến phẩm Vô sanh tương đương với phẩm đầu của Tiểu phẩm.6 Đại khái họ kế thừa truyền thuyết từ Đại
phẩm rút tỉa ra thành Tiểu phẩm, đối với các lý do pháp số giản lược, đầu đuôi
không rõ ràng của Tiểu phẩm, vì sao chép để lưu truyền không thuận lợi nên rút
tỉa ra thành Tiểu phẩm, v.v., nhìn chung là gần với lời của Chi Đạo Lâm đã nói.
Những nghiên cứu cận đại mà có thể được phổ biến các học
giả công nhận, đó là thuyết cho rằng phải có Tiểu phẩm trước rồi sau đó mới
phát triển rộng thêm thành Đại phẩm. Ma-ha
Bát-nhã ba-la-mật kinh giải đề và Phật
giáo kinh điển khái thuyết của học giả Nhật Bản là Shiio Benkyō (椎尾辨匡) cho rằng do từ phần thứ 4 của kinh Đại Bát-nhã – Tiểu phẩm, dần dần mở rộng thêm thành Đại phẩm. Từ phần
thứ 6 trở về sau, thì phần Kim cang Bát-nhã và Đại phẩm có đồng thời, có muộn
nhất là phần Bát-nhã lý thú. Quan ư
Bát-nhã kinh chi nguyên hình của học giả Nhật Bản là Suzuki Tadamune (鈴木忠宗) cũng cho rằng có Tiểu phẩm trước, đồng thời suy đoán nó
gần với phần thứ 5 của bản dịch đời Đường.7
Nguyên thỉ Bát-nhã kinh chi nghiên cứu của Kajiyoshi Kōun (梶芳光運), căn cứ vào sự so sánh rộng rãi, rồi suy đoán Tiểu phẩm
là trước nhất. Đồng thời, khảo xét và xác định hệ thống phát triển của kinh
Bát-nhã là:8
Trong 2 bộ, 3 bộ, 5 phần, suy đoán là: từ Nguyên thỉ
Bát-nhã rồi đến Đạo hành Bát-nhã – Hạ phẩm; từ Đạo hành Bát-nhã rồi đến Phóng
quang Bát-nhã – Trung phẩm; lại từ Phóng quang Bát-nhã rồi phát triển thành Bát-nhã
hội đầu tiên – Thượng phẩm. Quá trình phát triển này của kinh Bát-nhã, tôi hoàn
toàn đồng ý với luận định rõ ràng và chính xác này.
Từ trong Hạ phẩm suy cứu ra Nguyên thỉ Bát-nhã, đối với sự
lý giải về tính chất đặc trưng, xu hướng phát triển của pháp môn Bát-nhã là vô
cùng cần thiết! Shiio Benkyō (椎尾辨匡) cho rằng “phẩm Tu-bồ-đề
là xưa nhất,” Shiomi Tetsudō (鹽見徹堂) cũng nói: trước hết rút tỉa ra phẩm đầu của Tiểu phẩm; xem
bộ phận này của Đại phẩm là đứng đầu kinh điển.9
Kajiyoshi Kōun (梶芳光運) liệt kê
ra các bản, lấy một bộ phận của kinh Đạo
hành, phẩm Đạo hành (và các bản tương đương với nó) – bắt đầu từ ‘Phật ở tại
La-duyệt-kỳ’ đến đoạn Phật khen ngợi Tu-bồ-đề: “Bồ-tát học tập như vậy là học
bát-nhã ba la mật” thì dừng, làm “kinh Bát-nhã nguyên thỉ.”10 Những điều trình bày tuy có thêm bớt
chút ít, nhưng từ phẩm Đạo hành (hoặc phần Đại phẩm tương đương với nó) để suy
tìm Bát-nhã nguyên thỉ, vẫn có thể nói đó là nhận thức nhất trí. Về sau, lấy bản
dịch đời Tần (Tiểu phẩm) làm đại biểu, tham khảo các bản kinh khác, rồi trình
bày thêm. Sử dụng bản dịch của Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva), lấy văn tự của nó so sánh để làm thông suốt
hơn.
Mục 2.
Pháp môn Bát-nhã nguyên thỉ
Nói đến pháp môn
Bát-nhã nguyên thỉ, đương nhiên phải từ kinh Bát-nhã hiện đang còn – từ trong Hạ
phẩm Bát-nhã chọn lọc ra. Nhưng sự biên tập thành bản kinh của Phật Pháp, quyết
không nên tưởng tượng đó là những ‘sáng tác’ thông thường. Phật Pháp thì có
pháp môn trước, trải qua lần lượt truyền thọ, rồi sau mới biên tập ra; sự truyền
thọ của pháp môn so với sự biên tập ra của kinh điển thì đã tồn tại sớm hơn. Dùng
Bát-nhã nguyên thỉ để trình bày, thì đây là sự thể ngộ sâu xa và triệt để - ngộ
nhập vô sanh về bát-nhã. Đây là sự dạy dỗ nhằm khai thị để ngộ nhập, người mới
học không dễ dàng tin tưởng, hiểu biết và hành trì được. Trong sự truyền thọ lần
lượt nơi hàng thiểu số đệ tử Phật lợi căn, trong tư tưởng Bồ-tát lưu hành đương
thời, pháp môn bát-nhã ba-la-mật, sẽ không bị thoái chuyển nữa (không lui lại
Nhị thừa) được xác nhận là của Bồ-tát. Sự truyền thọ của pháp môn thì không giới
hạn nơi một người; trải qua truyền thọ và hành trì thuộc nhiều phương diện, cho
đến khi biên tập ra, bấy giờ chắc chắn có thể đã có sự tường thuật bất đồng mà
phần lớn giống nhau chỉ khác nhau chút ít, người biên tập đã đem chúng tổng hợp
lại thành một bộ. Sau khi biên tập ra, có điều gì thắc mắc thì biên tập thêm
vào một số giải thích; những pháp nghĩa nào có liên quan cũng sẽ được bổ sung
thêm vào: các đoạn văn cũng sẽ dần dần tăng nhiều thêm lên. Sự tổng hợp, giải
thích những điều nghi ngờ, bổ sung thêm như vậy, trên mặt nối tiếp văn tự, đều
có thể lưu lại nhiều vết tích,1 lại trải
qua nhiều lần nhuận sức văn tự mới trở thành một bộ kinh hoàn chỉnh. Bát-nhã
nguyên thỉ thì như vậy, Hạ phẩm Bát-nhã, Trung phẩm Bát-nhã, Thượng phẩm
Bát-nhã cũng như vậy; ở đây cũng có thể nói là tình hình phổ biến của sự biên tập
thành kinh điển. Đối với Bát-nhã nguyên thỉ, tôi cũng là từ quan điểm như vậy để
nghiên cứu phẩm đầu tiên của Hạ phẩm Bát-nhã. Bây giờ căn cứ vào bản dịch đời Tần,
thử phân đoạn một cách ngắn gọn, liệt kê ra, phân thành cao thấp để sắp xếp, nhằm
thuận tiện nhìn ra hình thức ban đầu của Bát-nhã nguyên thỉ một cách rõ ràng.
(I) Dẫn nhập. [1]
Phật bảo Tu-bồ-đề:
hãy thuyết sự cần phải thành tựu bát-nhã ba-la-mật cho các vị Bồ-tát. [2]
Tu-bồ-đề trả lời
Xá-lợi-phất: khi các đệ tử Phật dám nói ra điều gì, mà điều đó không trái với
pháp tướng thì đều là nhờ lực của Phật. [3]
(II) Tu-bồ-đề bạch
Phật: Con không thấy, không đắc được Bồ-tát, không thấy, không đắc được bát-nhã
ba-la-mật, thì phải dạy bát-nhã ba-la-mật gì cho Bồ-tát? Nếu người nào nghe được
lời này mà không kinh, không sợ, thì đó gọi là dạy bát-nhã ba-la-mật cho Bồ-tát.
[1]
Khi Bồ-tát thực
hành bát-nhã, cần phải học như thế này: không suy nghĩ đây là tâm Bồ-tát, vì
tâm này chẳng phải là tâm, đặc tính của tâm vốn trong sạch, không bị hoại,
không có phân biệt. Nếu người nào nghe được lời này mà không kinh, không sợ,
thì phải biết rằng đó là vị Bồ-tát không rời bát-nhã ba-la-mật. [2]
(Người nào muốn học
về địa vị của Thanh Văn, Bích-chi Phật, Bồ-tát, thì cần phải học bát-nhã
ba-la-mật; trong bát-nhã ba-la-mật đã nói rộng rãi về những pháp mà vị Bồ-tát cần
phải học.)2
(III) Tu-bồ-đề bạch
Phật: Con không đắc được, không thấy Bồ-tát thì phải dạy bát-nhã ba-la-mật gì
cho Bồ-tát? Con không đắc được sự đến đi của pháp Bồ-tát, nên đối với việc dùng
lời nói đây là Bồ-tát, thì con cảm thấy e ngại! Chữ ‘bồ-tát’ không có sự nhất định,
không có trú xứ, vì từ này không có thật. Nếu ai nghe được lời này mà không
kinh, không sợ, thì phải biết rằng đó là vị Bồ-tát trụ ở địa vị bất thoái chuyển,
trụ vào nơi không có chỗ trụ. [1]
Khi Bồ-tát thực
hành bát-nhã, không được trụ trong sắc.3
Nếu trụ nơi sắc thì bị đi theo sắc là thứ được tạo ra; nếu thực hành theo pháp
được tạo ra thời không thể thọ nhận bát-nhã, học tập bát-nhã, đầy đủ bát-nhã
ba-la-mật, không thể thành tựu tát-bà-nhã [sarvajñatā
– nhất thiết trí]. Sắc không có thọ và tưởng,
không có thọ thì chẳng phải sắc; bát-nhã cũng không có thọ. Thực hành như vậy
được gọi là tam-muội không có thọ của các pháp, tất cả Thanh Văn, Bích-chi Phật
không thể phá hoại tam-muội này được. Tam-muội này không thể dùng tướng để đắc
được,… Do đắc được thật tướng của các pháp nên được giải thoát; khi đã được giải
thoát rồi, thì ở trong các pháp, cho đến niết-bàn, cũng không có thủ, không có
xả. Đó gọi là bát-nhã ba-la-mật của Bồ-tát, không lãnh thọ lấy sắc, v.v. Khi
chưa đủ 10 thứ lực, bốn thứ vô sở úy, 18 thứ pháp bất cộng của Phật, thì không
bát-niết-bàn giữa chừng. [2]
Khi Bồ-tát thực hành bát-nhã, cần phải tư duy
như thế này: nếu pháp là không thể nắm bắt thì là bát-nhã ba-la-mật chăng? Tư
duy như vậy mà không kinh, không sợ, thì phải biết rằng vị Bồ-tát này không rời
bát-nhã ba-la-mật. [3]
Tu-bồ-đề đáp Xá-lợi-phất:
Pháp này đều lìa tự tánh, cũng lìa tánh tướng. Học như vậy thì có thể thành tựu
tát-bà-nhã. Vì tất cả pháp đề không có sanh, không có thành tựu, nên người nào
thực hành như vậy thời gần với tát-bà-nhã. [4]
(IV) Tu-bồ-đề bảo
Xá-lợi-phất: Nếu Bồ-tát thực hành theo cái hành của sắc, thực hành theo cái
sanh của sắc, thực hành theo cái diệt của sắc, thực hành theo cái hoại của sắc,
thực hành theo cái không của sắc, [thấy] ta thực hiện sự thực hành này: đây là
có tướng thực hành, là Bồ-tát chưa khéo biết về phương tiện. Nếu không thực
hành theo sắc, cho đến không thực hành theo cái không của sắc, thì đó gọi là thực
hành bát-nhã ba-la-mật. Không nghĩ về sự thực hành, không nghĩ về sự không thực
hành, thực hành mà không thực hành, chẳng phải thực hành chẳng phải không thực
hành, đó gọi là hành bát-nhã ba-la-mật. Vì tất cả pháp không có thọ nên gọi là thứ
tam-muội không có thọ về các pháp của Bồ-tát, tất cả Thanh Văn, Bích-chi Phật đều
không thể phá hoại được. Thực hành tam-muội này thì nhanh chóng đắc được a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề.
[1]
Bồ-tát thực hành
tam-muội này mà không nghĩ, không phân biệt đây là tam-muội, sẽ nhập vào, đang
nhập vào, đã nhập vào, thì vị Bồ-tát này sẽ nhận được lời thọ ký đắc tam-bồ-đề
từ chư Phật. Tam-muội này không thể chỉ cho thấy được, vì tánh của tam-muội này
là vô sở hữu. [2].
Phật khen ngợi
Tu-bồ-đề: Ta nói ngươi là người đệ nhất trong những người đạt được tam-muội vô
tránh, thật đúng như lời Ta đã nói! Bồ-tát cần phải học tập như vậy, đó gọi là
học bát-nhã ba-la-mật. [3]
Phật đáp Xá-lợi-phất: Bồ-tát học tập như vậy, mà
thật sự không có học gì nơi pháp, không giống như kẻ phàm phu đã chấp trước. Bồ-tát
học tập như vậy, cũng không học tập tát-bà-nhã, cũng gọi là học tát-bà-nhã,
thành tựu tát-bà-nhã.
‚ Phật đáp Tu-bồ-đề: Bồ-tát học tập a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề
thì giống như người huyễn học tập. [1]
Bồ-tát là ác tri
thức; Bồ-tát là thiện tri thức. [2]
Bồ-tát [3]
Ma-ha-tát [4]4
(V) Tu-bồ-đề bạch
Phật: Con không đắc được Bồ-tát trong thời quá khứ, vị lai, hiện tại. Vì sắc là
vô biên nên cần phải biết Bồ-tát cũng vô biên. Tất cả nơi chốn, thời gian, chủng
loại, Bồ-tát đều không thể nắm bắt, thì sẽ dạy bát-nhã ba-la-mật gì cho Bồ-tát?
[1]
Bồ-tát ấy chỉ có
tên gọi. Giống như chính con trọn chẳng sanh, tánh của tất cả pháp cũng như vậy.
Ở trong đây những thứ gì là sắc để không chấp trước, không sanh ra! Sắc là thứ
mà Bồ-tát không thể nắm bắt, cái không thể nắm bắt cũng không thể nắm bắt. Tất
cả nơi chốn, thời gian, chủng loại, Bồ-tát đều không thể nắm bắt, thì sẽ dạy
pháp gì để đi vào bát-nhã ba-la-mật? [2]
Bồ-tát ấy chỉ có
tên gọi. Giống như chính con trọn chẳng sanh, tánh của pháp cũng như vậy. Ở
trong đây những thứ gì là sắc để không chấp trước, không sanh ra! Tánh của các
pháp là như vậy, tánh này cũng không sanh, cái không sanh ấy cũng không sanh,
nay con sẽ phải dạy cái pháp không sanh để đi vào bát-nhã ba-la-mật chăng? Lìa
cái pháp không sanh ấy, thì vị Bồ-tát mà không thể nắm bắt ấy thực hành a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề.
Nếu người nào nghe được lời này mà không kinh, không sợ, thì phải biết đó là vị
Bồ-tát thực hành bát-nhã ba-la-mật. [3]
Khi Bồ-tát thực
hành bát nhã, thực hiện sự quán các pháp, liền không thọ sắc. Vì sao vậy? Sắc
không có sanh, không có diệt tức là chẳng phải sắc, không có sanh, không có diệt,
không phải là hai, không phải là khác. Nếu nói là sắc, tức là không có hai
pháp. [4]
(VI) Tu-bồ-đề đáp
Xá-lợi-phất: Tôi không muốn Bồ-tát có điều khó thực hành. (Sanh ra cái tưởng dễ,
cái tưởng vui, cái tưởng về cha mẹ, cái tưởng về con cái, cái tưởng về ngã sở đối
với chúng sanh thì có thể lợi ích vô lượng a-tăng-kỳ chúng sanh). Như đối với
tôi, tất cả nơi chốn, thời gian, chủng loại đều không thể nắm bắt, nên sanh ra
cái tưởng như vậy đối với pháp trong và ngoài. Nếu Bồ-tát sử dụng cái tâm như vậy
để thực hành thì cũng gọi là điều khó thực hành. [1]
Bồ-tát thật sự
không có sanh. Bồ-tát không có sanh, pháp của Bồ-tát cũng không có sanh;
tát-bà-nhã không có sanh, pháp tát-bà-nhã cũng không có sanh; không phu không
có sanh, pháp phàm phu cũng không có sanh. Tôi không muốn khiến cho pháp không
có sanh mà có sở đắc, vì pháp không có sanh thì không thể nắm bắt được. [2]
Các pháp đều
không có sanh, cái được gọi là không có sanh và sự nói một cách thích thú đó
cũng không có sanh. [3]
Xá-lợi-phất khen
ngợi Tu-bồ-đề: Ngài là người đứng đầu trong những người thuyết pháp! Vì tùy
theo điều được hỏi, ngài đều có thể trả lời. Tu-bồ-đề nói: Tôi có thể trả lời
tùy theo câu hỏi đều là nhờ lực của bát-nhã ba-la-mật. Nếu Bồ-tát nghe được lời
nói này, mà không nghi ngờ, không phân vân, thì phải biết rằng đó là Bồ-tát thực
hành sự thực hành này, không rời cái suy nghĩ này. [4]
Vì chúng sanh
không có tự tánh, vì chúng sanh là lìa, vì chúng sanh là không thể nắm bắt, nên
phải biết rằng cái suy nghĩ này cũng không có tự tánh, là lìa, là không thể nắm
bắt. Tôi muốn khiến cho Bồ-tát dùng cái suy nghĩ này để thực hành bát-nhã
ba-la-mật. [5]
Theo sự phân đoạn
về phẩm đầu tiên của Hạ phẩm Bát-nhã này thì không khó để nhận ra hình thức ban
đầu của kinh Bát-nhã. Bát-nhã là pháp môn tu chứng để thể ngộ, không phải là
trình bày hoặc giải thích về nghĩa lý, đây là một sự nhận thức cần thiết đối với
bát-nhã! Từ (I) phần mở đầu của kinh – phần mở đầu chung, để xét, thì bản dịch
đời Tần, v.v., về đại thể phù hợp với Trung phẩm, chỉ khác nhau về chi tiết hay
giải lược mà thôi. Nhưng bản dịch đời Hán và bản dịch đời Ngô thuộc về những bản
dịch cổ, lại đặc biệt đề cập đến “nhằm thời gian Thuyết Giới vào ngày thứ 15 của
[mỗi nửa] tháng.”5 Đây là
bản dịch xưa nhất, được xem trọng. Giới Phật giáo thời cổ đại, vào đêm Thuyết
Giới bố-tát, đại chúng tập hợp lại để ‘bàn luận về Pháp’. Như Mãn nguyệt đại kinh, Mãn nguyệt tiểu kinh của Trung bộ đều nói như thế này:6
“Bấy giờ,
vào ngày bố-tát đêm trăng tròn ngày thứ 15, đức Thế Tôn được chúng tỳ-kheo vây
quanh, cùng ngồi nơi chỗ đất trống.”
Phật Pháp là lấy
sự tu chứng làm chủ. Việc ở trong đại chúng tập trung để hỏi đáp lẫn nhau này,
truyền thọ về sau, cũng phát triển mạnh mẽ lên. Theo phần mở đầu của kinh
Bát-nhã, vào lúc Thuyết Giới ngày thứ 15, đại chúng tập trung. Đức Thế Tôn bảo
ngài Tu-bồ-đề (Subhūti) thuyết bát-nhã ba-la-mật mà Bồ-tát cần
phải tu học thành tựu. Tu-bồ-đề tuyên thuyết; dễ dàng khởi lên nghi vấn, do
Xá-lợi-phất (Śāriputra) đặt câu hỏi trước nhất, Tu-bồ-đề trả lời.
Đây là truyền thuyết xưa nói Tu-bồ-đề thuyết Bát-nhã, phù hợp với tình hình
‘bàn luận về Pháp’ thời xưa. Vì xem trọng ý nghĩa này nên ở giữa đoạn (IV) và (V),
Phật thuyết cho Xá-lợi-phất và thuyết Tu-bồ-đề - đoạn kinh văn dài, thì không
khớp với việc Phật sai Tu-bồ-đề thuyết pháp ở đoạn mở đầu. Vả lại, những lời mà
Tu-bồ-đề thuyết là thuộc khơi mở, phản vấn, tu chứng; còn phần do Phật thuyết lại
là giải thích, nhân tên gọi để định nghĩa. Cho nên, đem bỏ ra đoạn kinh dài của
Phật thuyết, thì thể văn và nội dung còn lại đều có thể nói là nhất trí với
nhau, đây chính là bộ phận Bát-nhã nguyên thỉ.
Tu-bồ-đề được
khen ngợi là: “Người
đệ nhất trong những người đạt được tam-muội vô tránh.” Vô tránh (araṇya), chính là a-lan-nhã. Từ mặt dấu vết để nói,
thì đây là sự thực hành a-lan-nhã ở nơi vắng vẻ thuộc thời kỳ đầu, chứ không phải
là sự thực hành luật nghi của việc sống gần tụ lạc (sống với tụ lạc). Từ mặt thực
chất để nói, thì thực hành vô tránh là sự tịch diệt xa rời mọi hí luận, xa rời
mọi tranh chấp. Kinh Câu-lâu-sấu vô tránh
trong quyển 43 của kinh Trung A-hàm
(T. 1, tr. 703c) nói:
“Tu-bồ-đề
tộc tánh tử dùng đạo vô tránh rồi sau biết pháp đúng như pháp.”
“Biết pháp đúng như sự chân thật của nó, Tu-bồ-đề nói nói
kệ, sự thực hành này đúng cái ‘không’ chân thật, xả bỏ [sự tranh chấp] để trụ
trong sự an tĩnh.”7
Sự thực hành vô
tránh, kinh nói là sự thực hành chân chánh trung đạo “không có khổ,
không có phiền, không có nóng bức, không có lo rầu,” là sự thực hành chân chánh
“chân thật không hư dối, tương ưng với nghĩa [phù hợp với mục đích giải thoát].
Trong lời “tùy theo phong tục và luật pháp của các quốc gia, chứ khẳng định là
đúng, chứ khẳng định là sai” đã giải thích tánh bất định của ngôn ngữ tùy phong
tục địa phương, không nên cố chấp rồi khởi tranh luận.8 Trong kinh Bát-nhã, bát-nhã mà Tu-bồ-đề thuyết, là “không thấy có Bồ-tát,
không đắc được Bồ-tát, cũng không thấy có, không đắc được bát-nhã ba-la-mật.”9 “Cái tên Bồ-tát không có sự nhất định,
không có trụ xứ, vì sao vậy? Vì tên này không có thật.”10 “Bồ-tát ấy chỉ có tên gọi.”11 Điều này với tánh bất định của tên gọi
‘sự thực hành vô tránh’, rõ ràng là có liên quan. Quyển 5 của Tam luận huyền nghĩa kiểm u tập (T. 70,
tr. 459b-c) nói:
“Ngài Chân Đế nói: Bộ phái này chủ trương rằng pháp thế
gian và pháp xuất thế gian đều là những tên gọi giả, cho nên họ nói tất cả pháp
đều không có cái thể chân thật; cùng là một tên gọi, tên gọi tức là [dùng để]
nói, nên gọi là Nhất thuyết bộ.”
Những chủ trương [tông nghĩa] liên quan đến Nhất thuyết bộ
(Ekavyāvahārika), Cát Tạng, Pháp
Tạng, Khuy Cơ đều sử dụng truyền thuyết của Chân Đế (Paramārtha). Tên gọi và ý nghĩa của Nhất thuyết bộ, có
người cho rằng không phải được giải thích như vậy. Chủ trương của Nhất thuyết bộ
không có tài liệu để chứng minh nhiều, nhưng vào thời đại của Chân Đế ở thế kỷ
6 A.D., Nhất thuyết bộ của Ấn-độ không có chủ trương như vậy. “Các pháp đều chỉ
có tên gọi mà không có thật thể” phù hợp với Bát-nhã nguyên thỉ. Lời này được
xem là lời dạy bát-nhã ba-la-mật cho Bồ-tát, khả năng là có liên quan đến Nhất
thuyết bộ.
Ở đoạn (III) và (IV) trong phẩm mở đầu của Hạ phẩm
Bát-nhã đã nói đến hai loại tam-muội giống nhau phần lớn mà khác nhau chút ít,
như quyển 1 của kinh Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật
(T. 8, tr. 537c, 538a) nói:
“Bồ-tát cần học tập và thực hành bát-nhã ba-la-mật như vậy,
đó gọi là tam-muội không có thọ các pháp của Bồ-tát, [tam-muội này] rộng lớn,
vô lượng, không có hạn định, tất cả Thanh Văn, Bích-chi Phật không thể phá hoại
được.”
“Đó được gọi là thực hành bát-nhã ba-la-mật, vì sao vậy?
Vì không có thọ mọi pháp, đó gọi là tam-muội không có thọ các pháp của Bồ-tát, [tam-muội
này] rộng lớn, vô lượng, không có hạn định, tất cả Thanh Văn, Bích-chi Phật
không thể phá hoại được.”
Từ dịch của hai loại tam-muội trong bản dịch đời Tần với
bản dịch đời Tống, bản dịch đời Hán tương đồng. Bản Đường dịch phần 4 phân biệt
thành “thứ định không có nhiếp thọ đối với mọi pháp” và “thứ định không có thủ
chấp đối với mọi pháp.” Trong bản Phạn, quả thật là có khác nhau giữa sarvadharmāparigṛhīta-samādhi và sarvadharmānupādāna-samādhi, nhưng ý
nghĩa của ‘nhiếp thọ’ và ‘thủ chấp’ (cách dịch xưa cũng gọi là ‘thọ’) là gần
nhau. Đoạn (III) của kinh văn nói: “Nếu trụ nơi sắc thì bị đi theo sắc là thứ được tạo ra… Nếu thực hành theo
pháp được tạo ra thời không thể (nhiếp) thọ bát-nhã ba-la-mật… Nếu như sắc không có thọ thì chẳng phải sắc… được gọi là tam-muội
không có (nhiếp) thọ của các pháp của Bồ-tát.” Ở đây là lấy sự không trụ nơi mọi
pháp, không nhiếp thọ mọi pháp để gọi là ‘tam-muội không có thọ các pháp’. Đoạn
(IV) nói: “Nếu thực hành theo cái hành của sắc…, tướng thực
hành… Bồ-tát không thực hành theo sắc, không thực hành theo cái sanh của sắc,
không thực hành theo cái diệt của sắc, không thực hành theo cái hoại của sắc, không
thực hành theo cái không của sắc.” Tiến thêm một bước, nói: “Không nghĩ (ta) thực hành bát-nhã ba-la-mật, không nghĩ về sự không thực
hành, không nghĩ thực hành mà không thực hành, cũng không nghĩ chẳng phải thực
hành chẳng phải không thực hành... Nên gọi là thứ tam-muội không có thọ (chấp
thủ).” Ở đây là lấy sự không thủ trước tướng của mọi pháp để lập nên tên gọi.
Hai loại tam-muội này thật ra là sự truyền tụng bất đồng của cùng một lời dạy,
do người biên tập kinh đã tập hợp lại cùng một lần, và xem đây đều chính là
bát-nhã ba-la-mật. ‘Không trụ nơi (5 uẩn gồm) sắc, (v.v.), ‘không làm sự thực
hành’, ‘không thủ trước’, ‘không nhiếp thọ’ đều là kế thừa Phật Pháp nguyên thỉ,
là những thuật ngữ sẵn có của Phật Pháp.12
Nhưng ‘tam-muội không có thọ các pháp’ như thế được giải thích là khi Bồ-tát đã
tu tập tương ưng với nó rồi thì sẽ không bị thoái chuyển để rơi vào Nhị thừa,
cho nên đây là thứ bát-nhã ba-la-mật ‘không cùng chung với Nhị thừa’, chỉ riêng
Bồ-tát có. Ở đây muốn nói đến: một, bát-nhã ba-la-mật của Bồ-tát chính là
‘tam-muội không có thọ các pháp’, nhưng chính pháp môn Bát-nhã sau khi được
phát triển mạnh mẽ, cực lực suy tôn bát-nhã, nhưng đã không đề cập trở lại
‘tam-muội không có thọ’ này! Từ những kinh Đại thừa đã nhận ra được rằng, những
kinh điển dùng tên tam-muội để đặt làm tên kinh, dùng tam-muội làm chủ đề là rất
nhiều. Trong bộ phận những kinh mang tên tam-muội của Đại thừa, suy tôn sự thực
hành a-lan-nhã, thậm chí nói nếu không thực hành a-lan-nhã thì không thể thành
Phật. Mối quan hệ giữa tam-muội của Đại thừa và sự thực hành a-lan-nhã rất sâu
đậm. Pháp môn Bát-nhã cũng từ trong sự thực hành a-lan-nhã mà ra, cho nên truyền
thuyết nói là Tu-bồ-đề (người đệ nhất có tam-muội vô tránh) thuyết bát-nhã. Cho
đến khi Đại thừa thịnh hành, tam-muội của Đại thừa tương truyền đều được hàng Bồ-tát
tu tập truyền ra. Hai, ‘tam-muội không có thọ’ – bát-nhã ba-la-mật, là sự thực
hành của Bồ-tát, không cùng chung với Nhị thừa. Nhưng người tuyên thuyết
bát-nhã là vị đệ tử Thanh Văn Tu-bồ-đề. Chính Tu-bồ-đề nói: “Khi người đệ
tử Phật dám nói điều gì thì đó đều là nhờ lực của Phật. Vì sao vậy? Vì Pháp được
Phật thuyết, ở trong những người học có người có khả năng chứng được tướng của
Pháp. Sau khi chứng, họ có nói ra lời gì, thì những lời đó đều không trái nghịch
với pháp tướng, đó là nhờ lực của pháp tướng mà họ chứng được.”13 Theo lời Tu-bồ-đề nói, để tử Phật nhờ
Pháp do Phật thuyết mà tu học, những người này có khả năng chứng đắc được ‘tướng
của Pháp’, sau khi chứng rồi thì luôn luôn không trái nghịch với ‘tướng của Pháp’.
Cho nên nói ‘vì đều là nhờ lực của Phật’, ‘vì nhờ lực tướng của Pháp’. Lực của
Phật, luận Đại trí độ giải thích rằng:
“Chúng ta (lời đệ tử tự xưng) tuy có con mắt trí tuệ, nhưng nếu không gặp được
Phật Pháp thì không thấy được gì… Phật cũng như vậy, nếu không dùng ngọn đèn
trí tuệ soi rọi cho chúng tôi thì chúng ta không thấy được gì.”14 Cái thuyết ‘lực của Phật’ của Bát-nhã
nguyên thỉ khác với sự gia của tha lực thông thường; Tu-bồ-đề là người tự
chứng rồi sau đó mới tùy thuận ‘tướng của Pháp’ để thuyết. Trong phần nói
về ‘tam-muội không có thọ’ ở đoạn (III), còn nêu ra sự chứng nhập của phạm-chí
Tiên-ni (Śreṇika Parivrājaka) để làm ví
dụ. Bát-nhã ba-la-mật mà chỉ riêng Bồ-tát có, dường như có phần chung với đệ tử
Thanh Văn, Ở dưới tiết [3] nhỏ ở đoạn (II) cũng đã thêm vào một đoạn khuyến
khích cả ba thừa cùng học bát-nhã. Rốt cục Bát-nhã ba-la-mật ‘chỉ dạy cho Bồ-tát’,
hay còn là ‘giáo pháp chung cho cả ba thừa’, đã trở thành một vấn đề tinh tế
trên mặt học tập giáo pháp.
Phật bảo Tu-bồ-đề thuyết bát-nhã ba-la-mật cho Bồ-tát,
Tu-bồ-đề không có vấn đáp nào với hàng Bồ-tát, mà chỉ là trình bày đối với Phật.
Lời mà Tu-bồ-đề nói, ở trong Thánh điển trở thành một cung cách riêng biệt. Tu-bồ-đề
hoàn toàn không nói Bồ-tát cần phải tu bát-nhã như thế nào, ngược lại dùng câu
nghi vấn phủ định, nhằm biểu đạt bát-nhã cần phải học, cần phải thành tựu. Như
nói: “Con không thấy có Bồ-tát,
không đắc được Bồ-tát, cũng không thấy, không đắc được bát-nhã ba-la-mật, thì
phải dạy bát-nhã ba-la-mật gì?” (II) “Nếu pháp là không thể nắm
bắt thì là bát-nhã ba-la-mật chăng?” (III] “Như vậy tất cả nơi chốn, tất cả thời gian, tất cả chủng loại,
Bồ-tát đều không thể nắm bắt, thì sẽ dạy bát-nhã ba-la-mật gì cho Bồ-tát?” “Thì sẽ dạy pháp gì để đi vào bát-nhã
ba-la-mật?” “Nay con sẽ phải dạy cái pháp không sanh để
đi vào bát-nhã ba-la-mật chăng?” (V) Bồ-tát và bát-nhã đều chỉ có tên gọi, không có pháp thật, nên không có
người (Bồ-tát) thọ giáo, cũng không có cái pháp (bát-nhã) được dạy. Điều này dường
như nói ngược với lời Phật, mà kỳ thật là ai đã liễu đạt như vậy mà ‘không
kinh, không sợ, không thoái lui’ thì đó chính là bát-nhã ba-la-mật mà Bồ-tát cần
phải tu học cho thành tựu. Phát minh ra sự hỏi đáp như vậy, người xưa gọi là ‘dùng
sự ngăn che để làm sáng tỏ’. Lại nữa, như ‘tam-muội không có thọ các pháp’ được
trình bày đó, là “không
được trụ nơi sắc” (III); “không đi theo sắc”, v.v., “không nghĩ [ta] thực
hành” mà không thực hành, v.v. (IV). Không trụ vào mọi thứ, không nghĩ đến mọi
thứ (cũng không nghĩ đây là tâm Bồ-tát) (II) thì phù hợp với ‘thiền chân thật’
– không nương tựa vào mọi thứ để tu thiền, mà Phật đã dạy cho Sân-đà
Ca-chiên-diên (Sandhakātyāyana-gotra).15 Trong đoạn thứ (V), dùng ‘cái ngã’ làm
ví dụ, rồi nói tánh (tự tánh) của tất cả pháp cũng như vậy. Tánh của pháp không
sanh, cái không sanh cũng không sanh, đây là không thọ (thủ) ‘cái pháp không có
hai’ gồm cái không sanh không diệt, không có hai không có khác của tất cả pháp.
‘Không có sanh’, ‘pháp không hai’ là cái tuyệt đối, là cái siêu việt sai biệt,
sanh diệt. Ở đoạn thứ (VI), nhân vì nghi ngờ của Xá-lợi-phất nên nêu bật sự
không thể thủ, không thể nắm bắt, thì không có cái gì để gọi là khó thực hành
hay dễ thực hành; Bồ-tát, Tát-bà-nhã (Phật), phàm phu đều là không có sanh; tất
cả đều không có sanh, chính là nói nguyên văn cái từ không có sanh ấy cũng không
có sanh. Cuối cùng, dùng ‘không có tánh’, ‘lìa’, ‘không thể nắm bắt’ để nói sự
bình đẳng giữa Bồ-tát và chúng sanh; Bồ-tát cần phải thực hành bát-nhã ba-la-mật
như vậy. Ở trong phẩm mở đầu, đem đoạn kinh văn dài Phật thuyết cho Xá-lợi-phất
và Phật thuyết cho Tu-bồ-đề bỏ ra, thì lộ ra rõ cái đặc trưng nhất quán của
Bát-nhã nguyên thỉ. Từ Bồ-tát và
bát-nhã, khai thị cái không thể dạy được, không thể vào được; không được trụ,
không được nghĩ để dẫn vào sự ngộ sâu sắc về sự ‘không có sanh’.
Pháp môn Bát-nhã là kế thừa Phật giáo nguyên thỉ nhưng có
sự phát triển. Trên phương diện ‘sự phân hóa thành bộ phái Phật giáo và Đại thừa’,
nói đến phái chủ trương ‘thứ tự thấy được chân lý – thứ đệ kiến Đế’, là đi vào
dần dần [tiệm nhập], trước hết thấy Khổ đế - vô thường, khổ, không, vô ngã. Phái
chủ trương ‘thấy được chân lý chỉ trong một niệm – nhất niệm kiến Đế’ là đi vào
lập tức [đốn nhập], thấy ngay được Diệt đế - tịch diệt, vô tướng. Phật giáo Bộ
phái tuy có chia thành hai phái đi vào dần dần và đi vào lập tức, nhưng vào cái
lúc trước khi thấy được Đạo, luôn luôn trước hết phải lấy vô thường, khổ, vô
ngã (hoặc thêm ‘bất tịnh’) làm pháp môn quán, khởi lên tâm chán bỏ, xa lìa rồi
hướng về sự diệt. Chán bỏ sanh tử, hướng đến tịch diệt, cái tâm tình chán bỏ rất
nồng hậu. Như trong đoạn thứ (IV) của phẩm mở đầu nói Bồ-tát không thực hành
theo sắc, không thực hành theo sự sanh của sắc, sự diệt của sắc, không thực
hành theo sự hoại của sắc, cái không của sắc: pháp môn Bát-nhã là pháp môn
không quán về sanh diệt, vô thường và không. Kinh nói: “Vì sắc không hoại mà
quán sự vô thường của sắc…; người không quán như vậy thì được gọi là thực hành
bát-nhã ba-la-mật tương tợ.16 Không
hoại có nghĩa là không biến đổi, pháp môn Bát-nhã là từ sự như như không biến đổi
– không sanh không diệt của sắc, v.v., để quán vô thường.17 Đây là pháp có nguồn gốc sâu xa từ Phật
giáo nguyên thỉ, tiếp cận với ‘thấy chân lý trong một niệm tâm – nhất tâm kiến
đế’, nhưng là do thiểu số người ngộ được sâu sắc, quán trực tiếp tất cả pháp là
không thể nắm bắt, không sanh diệt để ngộ nhập.
Phẩm mở đầu của bản dịch đời Tần có 3 nơi nói đến từ ‘tướng
của pháp’, như nói:18
“Chứng được tướng của các pháp. Sau khi chứng, có nói điều
gì cũng đều không trái nghịch với tướng của pháp là do lực tướng của pháp.”
“Vì đắc được tướng thật của các pháp.”
“Tướng của các pháp là như vậy.”
Các từ tướng của pháp, tướng thật của pháp mà
Cưu-ma-la-thập đã dịch, bản dịch đời Đường và bản dịch đời Tống đều gọi là
tánh của các pháp, tánh thật của các pháp; bản dịch đời Ngô gọi là ý của pháp
có nguyên ngữ là dharmatā.19 “Vì đắc được tướng
thật của các pháp”, bản dịch đời Đường gọi là “vì lấy cái tánh chân thật của
pháp làm định lượng;”20 pháp
môn Bát-nhã là lấy ‘tánh của pháp – pháp tánh’ làm tiêu chuẩn. Tánh của tất cả
pháp là như thế, nên không cần phải đi từ sự sanh diệt mà thế tục đã thấy để thực
hành, mà trực tiếp đi từ pháp tánh – không sanh không diệt, không có hai không
có khác, không có thủ không có trước mà đi vào lập tức. Đây là thiểu số những
người có trí sâu sắc lợi căn có khả năng đi vào, được xem là bát-nhã ba-la-mật
của Bồ-tát, không cùng chung với Nhị thừa, nhân vì sự lưu hành của tư tưởng Bồ-tát
nên nó dần dần được phát triển mạnh mẽ lên.
1 Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 401,
T. 7, tr. 1a.
2 Đại
Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 538, T. 7, tr. 763a.
3 Xuất Tam tạng ký tập 8, T. 55,
tr. 55b.
4 Xuất Tam tạng ký tập 8, T. 55,
tr. 39c.
5 Xuất Tam tạng ký tập 8, T. 55,
tr. 56b.
6 Xem: Kajiyoshi Kōun (梶芳光運), Nguyên thỉ
Bát-nhã kinh chi nghiên cứu, tr. 248-253 đã trình bày.
7 Xem: Kajiyoshi Kōun (梶芳光運), Nguyên thỉ
Bát-nhã kinh chi nghiên cứu, tr. 249-252.
8 Kajiyoshi Kōun (梶芳光運), Nguyên thỉ
Bát-nhã kinh chi nghiên cứu, tr. 660.
9 Kajiyoshi Kōun (梶芳光運), Nguyên thỉ
Bát-nhã kinh chi nghiên cứu, đã dẫn, tr. 253.
10 Kajiyoshi Kōun (梶芳光運), Nguyên
thỉ Bát-nhã kinh chi nghiên cứu, tr. 559-592., đã nêu ra bộ phận của kinh
Bát-nhã nguyên thỉ là một phần trong quyển 1 của kinh Đạo hành Bát-nhã, T. 8, tr. 425c-427a.
1 Đạo An nói Tiểu phẩm “từ đầu đến cuối có những điều sâu kín” chính là vì lẽ đó.
2 Văn đoạn này với đoạn trước và sau không được liên tiếp với nhau, tôi suy
đoán đó là phần được bổ sung thêm.
3 Hạ phẩm Bát-nhã đều căn cứ 5 uẩn để nói. ‘Sắc’ như vậy, ‘thọ, tưởng, hành,
thức’ cũng như vậy. Ở đây lấy ‘sắc’ làm đại biểu cho 5 uẩn, văn ở sau cũng đều
là như vậy.
4 Thể tài của một đoạn dài Phật trả lời Tu-bồ-đề này khác với đoạn trước và
sau. Phần Ma-ha-tát, trình bày rộng về Đại thừa, thông thường đều xem là có về sau.
5 Đạo hành Bát-nhã ba-la-mật kinh 1,
T. 8, tr. 425c. Đại minh độ kinh 1,
T. 8, tr. 478b, văn khác nhau nhưng ý nghĩa thì tương đồng.
6 Trung bộ, (109) Mãn nguyệt đại
kinh, Nam truyền 11 thượng, tr. 370. Trung
bộ, (110) Mãn nguyệt tiểu kinh, Nam truyền 11 thượng, tr. 378.
7 Trung bộ, (139) Vô tránh phân biệt
kinh, Nam truyền 11 hạ, tr. 332, là cùng một kinh điển, nói đến Tu-bồ-đề nhưng
thiếu phần kệ tụng.
8 Trung A-hàm kinh 43, Câu-lâu-sấu vô
tránh kinh, T. 1, tr. 703a.
9 Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8,
tr. 537b.
10 Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8,
tr. 537c.
11 Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8,
tr. 539b. Nhưng trong bản dịch đời Tống, T. 8, tr. 591a; bản dịch đời Đường phần
thứ 5, v.v., T. 7, tr. 869a, Bồ-tát và bát-nhã đều chỉ có tên gọi.
12 Như Tạp A-hàm kinh 2, T. 2, tr. 9a, 11a,
v.v., đã nói.
13 Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8,
tr. 537b.
14 Đại trí độ luận 41, T. 25, tr. 357c.
15 Tạp A-hàm kinh 33, T. 2, tr. 235c-236a.
16 Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 3, T. 8,
tr. 546c.
17 Phù hợp với
ý nghĩa của Duy-ma-cật sở thuyết kinh nói: “không sanh không diệt là vô thường,”
và “vì sắc không hoại nên quán sắc là vô thường.
18 Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8,
tr. 537b-c, 539a.
19 Từ ‘pháp
tướng’ mà Cưu-ma-la-thập đã dịch, tân dịch gọi là ‘pháp tánh’. Nhưng khác với từ
‘pháp tánh’ hoặc ‘pháp tự tánh’ (dharma-svabhāva), hoặc là ‘pháp giới’ (dharma-dhātu)
mà La-thập đã dịch. Danh từ dịch khác nhau nên đừng nhầm nó cùng một nghĩa.
20 Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 538 (phần
thứ 4), T. 7, tr. 764c; và, q. 556 (phần thứ 5), T. 7, tr. 866c.
1 Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 401,
T. 7, tr. 1a.
2 Đại
Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 538, T. 7, tr. 763a.
3 Xuất Tam tạng ký tập 8, T. 55,
tr. 55b.
4 Xuất Tam tạng ký tập 8, T. 55,
tr. 39c.
5 Xuất Tam tạng ký tập 8, T. 55,
tr. 56b.
6 Xem: Kajiyoshi Kōun (梶芳光運), Nguyên thỉ
Bát-nhã kinh chi nghiên cứu, tr. 248-253 đã trình bày.
7 Xem: Kajiyoshi Kōun (梶芳光運), Nguyên thỉ
Bát-nhã kinh chi nghiên cứu, tr. 249-252.
8 Kajiyoshi Kōun (梶芳光運), Nguyên thỉ
Bát-nhã kinh chi nghiên cứu, tr. 660.
9 Kajiyoshi Kōun (梶芳光運), Nguyên thỉ
Bát-nhã kinh chi nghiên cứu, đã dẫn, tr. 253.
10 Kajiyoshi Kōun (梶芳光運), Nguyên
thỉ Bát-nhã kinh chi nghiên cứu, tr. 559-592., đã nêu ra bộ phận của kinh
Bát-nhã nguyên thỉ là một phần trong quyển 1 của kinh Đạo hành Bát-nhã, T. 8, tr. 425c-427a.
1 Đạo An nói Tiểu phẩm “từ đầu đến cuối có những điều sâu kín” chính là vì lẽ đó.
2 Văn đoạn này với đoạn trước và sau không được liên tiếp với nhau, tôi suy
đoán đó là phần được bổ sung thêm.
3 Hạ phẩm Bát-nhã đều căn cứ 5 uẩn để nói. ‘Sắc’ như vậy, ‘thọ, tưởng, hành,
thức’ cũng như vậy. Ở đây lấy ‘sắc’ làm đại biểu cho 5 uẩn, văn ở sau cũng đều
là như vậy.
4 Thể tài của một đoạn dài Phật trả lời Tu-bồ-đề này khác với đoạn trước và
sau. Phần Ma-ha-tát, trình bày rộng về Đại thừa, thông thường đều xem là có về sau.
5 Đạo hành Bát-nhã ba-la-mật kinh 1,
T. 8, tr. 425c. Đại minh độ kinh 1,
T. 8, tr. 478b, văn khác nhau nhưng ý nghĩa thì tương đồng.
6 Trung bộ, (109) Mãn nguyệt đại
kinh, Nam truyền 11 thượng, tr. 370. Trung
bộ, (110) Mãn nguyệt tiểu kinh, Nam truyền 11 thượng, tr. 378.
7 Trung bộ, (139) Vô tránh phân biệt
kinh, Nam truyền 11 hạ, tr. 332, là cùng một kinh điển, nói đến Tu-bồ-đề nhưng
thiếu phần kệ tụng.
8 Trung A-hàm kinh 43, Câu-lâu-sấu vô
tránh kinh, T. 1, tr. 703a.
9 Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8,
tr. 537b.
10 Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8,
tr. 537c.
11 Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8,
tr. 539b. Nhưng trong bản dịch đời Tống, T. 8, tr. 591a; bản dịch đời Đường phần
thứ 5, v.v., T. 7, tr. 869a, Bồ-tát và bát-nhã đều chỉ có tên gọi.
12 Như Tạp A-hàm kinh 2, T. 2, tr. 9a, 11a,
v.v., đã nói.
13 Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8,
tr. 537b.
14 Đại trí độ luận 41, T. 25, tr. 357c.
15 Tạp A-hàm kinh 33, T. 2, tr. 235c-236a.
16 Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 3, T. 8,
tr. 546c.
17 Phù hợp với
ý nghĩa của Duy-ma-cật sở thuyết kinh nói: “không sanh không diệt là vô thường,”
và “vì sắc không hoại nên quán sắc là vô thường.
18 Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8,
tr. 537b-c, 539a.
19 Từ ‘pháp
tướng’ mà Cưu-ma-la-thập đã dịch, tân dịch gọi là ‘pháp tánh’. Nhưng khác với từ
‘pháp tánh’ hoặc ‘pháp tự tánh’ (dharma-svabhāva), hoặc là ‘pháp giới’ (dharma-dhātu)
mà La-thập đã dịch. Danh từ dịch khác nhau nên đừng nhầm nó cùng một nghĩa.
20 Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 538 (phần
thứ 4), T. 7, tr. 764c; và, q. 556 (phần thứ 5), T. 7, tr. 866c.