Tiết 2.
Người nắm giữ và hoằng truyền Đại thừa sơ kỳ
Mục 1. Bồ-tát
xuất gia và Bồ-tát tại gia
Người tu học Phật
Pháp, từ Phật giáo nguyên thỉ về sau, có 7 chúng đệ tử, có sự khác biệt giữa xuất
gia và tại gia, đối với sự tin tưởng, hiểu biết và tu hành Phật Pháp thì không
có bất đồng quá lớn. Nhưng sự chuyên tinh tu tập để chứng ngộ của người xuất
gia, so với người tại gia còn nhiều công việc bận rộn, thì cần phải có phương
tiện nhiều hơn. Đức Thích tôn là người xuất gia, hành đệ tử có rất nhiều người
‘theo Phật xuất gia’, Tăng xuất gia cũng trở thành chủ thể nắm giữ và duy trì
Phật Pháp, hoằng truyền Phật Pháp, nên cũng sẽ có phân biệt giữa tín chúng và
Tăng chúng. Sự thật này kéo dài mãi về sau. Trong thời đại đức Thích tôn, như
trưởng giả Chất-đa (Citra) là người có khả năng thuyết pháp cho cả
người xuất gia và tại gia, trong Tương
ưng bộ biên tập thành Chất-đa tương ưng, gồm 10 kinh.1
Có thể thấy rằng chúng đệ tử tại gia mà có trí tuệ thì có thể thuyết pháp cho chúng
xuất gia, đây là việc đã có từ xưa, nhưng sau khi Phật nhập diệt, Phật giáo do
người xuất gia làm chủ đã được phát triển mạnh mẽ lên, những đệ tử tại gia như
là trưởng giả Chất-đa cũng ít thấy dần. Sự hưng khởi của Phật Pháp Đại thừa, có
thể nói là đã khôi phục địa vị Phật giáo nguyên thỉ của người tại gia, dù là Bồ-tát
thuộc hàng trời, Bồ-tát thuộc hàng quỉ, súc sanh, Bồ-tát tại gia thuộc nhân
gian, so với thời đại đức Thích tôn, dường như còn hưng thịnh hơn một ít. Thời
đại Phật Pháp Đại thừa tại Ấn-độ, người bắt đầu gánh vác trách nhiệm hoằng truyền
Đại thừa, trên mặt ghi chép Sử truyện, dường như vẫn không nhiều. Như vào đầu
thế kỷ 5 A.D., tại Ấn-độ, Pháp Hiển đã thấy ở thành Hoa Thị (Pāṭaliputra) “có một người bà-la-môn theo Đại thừa tên là La-ốc-tư-bà-mê… Cả nước
chiêm ngưỡng, nhờ người này hoằng truyền và tuyên dương Phật Pháp nên ngoại đạo
không thể bức hiếp Tăng chúng nữa… Thầy của vị bà-la-môn này cũng có tên là
Văn-thù-sư-lợi, được các hàng đại đức sa-môn và các tỳ-kheo Đại thừa trong nước
đều tôn trọng, kính ngưỡng, cũng sống ở Tăng già-lam này.”2
La-ốc-tư-bà-mê (Rādha-svārmīn) là tại gia bà-la-môn nhưng hoằng truyền
pháp Đại thừa; Trí Mãnh là người đồng thời đi về hướng Tây với Pháp Hiển cũng
đã gặp được vị ‘đại trí bà-la-môn’ này.3
Thầy của La-ốc-tư-bà-mê – Văn-thù-sư-lợi (Mañjuśrī), sống trong chùa Tăng, là người xuất gia. Đường Huyền Trang đi khắp Ấn-độ
(629-643), cũng gặp được hai vị Bồ-tát tại gia: trong khu rừng nước Trạch-ca (Takka),
gặp vị bà-la-môn lớn tuổi “thông thạo các bộ luận như Trung (luận), Bách (luận),
Quảng Bách luận, giỏi giang các sách
khác như Vệ-đà, v.v.” Huyền Trang theo vị ấy “học Kinh, Bách luận, Quảng Bách luận.”
Một vị khác là: Luận sư Thắng Quân (Jayasena), “sống trong núi Trượng Lâm, nuôi dưỡng
và dạy dỗ đệ tử, thường giảng kinh Phật, kẻ đạo người tục đều quy ngưỡng theo học
luôn quá vài trăm người.” Huyền Trang đã theo Thắng Quân học những Kinh-Luận của
hệ Du-già trong 2 năm.4 Những
người tại gia nhưng hoằng truyền Phật Pháp, vài vị này có sự thật lịch sử đáng
tin tưởng, nhưng đều không quá nhiều. Về tình hình của Đại thừa sơ kỳ, ở đây thử
phân biệt ra để trình bày.
Kinh A-di-đà tam-da-tam Phật tát-lâu Phật đàn quá
độ nhân đạo: khi Phật A-di-đà (Amita) phát tâm cầu đạo bồ-đề, Ngài là vua Đàm-ma-ca
(Dharmākara) xuất gia làm sa-môn; “hàng tối thượng đệ nhất”
vãng sanh tịnh độ A-di-đà là hàng Bồ-tát “bỏ nhà, bỏ vợ con, đoạn ái dục để làm
sa-môn,” hạng trung và thấp nhất mà vãng sanh là người tại gia.5 Hàng xuất gia không nhất định phải vãng
sanh tịnh độ A-di-đà, nhưng hạng người tối thượng đệ nhất vãng sanh tịnh độ
Di-đà, lại là xuất gia để tu Bồ-tát đạo.
Kinh A-súc Phật quốc: khi Phật A-súc mới phát
tâm, ngài là vị tỳ-kheo được gọi là Bồ-tát A-súc (Akṣobhya). Bồ-tát A-súc phát nguyện: “Đời đời mà không luôn luôn làm sa-môn, đời đời
mà không luôn luôn mặc y bổ nạp, đời đời làm sa-môn mà không đủ 3 pháp y, cho đến
thành tối chánh giác thì tôi là kẻ dối lừa chư Phật Thế tôn.”6 Đây là Bồ-tát lập nguyện đời đời xuất
gia, cho nên tịnh độ của Phật A-súc có “có chư vị Bồ-tát ma-ha-tát bỏ râu tóc
(xuất gia) nơi Phật A-súc.” Bản dịch khác nói: “trong cõi của đức Phật ấy có
các chúng chư Bồ-tát, ít người tại gia, nhiều người xuất gia.”7 Tịnh độ của Phật A-súc đặt nặng về xuất
gia Bồ-tát, so với việc coi trọng xuất gia Bồ-tát của tịnh độ Di-đà, lại tiến
thêm một tầng!
Kinh Bát-nhã ba-la-mật: người thuyết pháp của
Bát-nhã nguyên thỉ là Tu-bồ-đề - “người tối đệ nhất trong những người đạt
tam-muội vô tránh;” thuyết bát-nhã ba-la-mật cho hành Bồ-tát, là “tam-muội
không chấp thọ các pháp:”8 điều này
đã cho thấy rằng Bát-nhã nguyên thỉ là từ trong định huệ của tỳ-kheo a-lan-nhã,
chuyên tinh tu hành mà ra. Bát-nhã bản trung nói về 10 địa vị của Bồ-tát: “trong
4 địa vị cần phải chấp hành không được bỏ 10 pháp, 10 pháp đó là những gì? Một,
không bỏ việc sống ở nơi a-lan-nhã; hai, thiểu dục; ba, tri túc; bốn, không bỏ
công đức đầu-đà; năm, không bỏ giới; sáu, từ bỏ các dục xấu xa; bảy, xa lánh
tâm thế gian; tám, bỏ tất cả sở hữu; chín, tâm không sa đọa; mười, không tiếc bất
cứ vật gì… Trụ trong địa vị thứ năm thì phải xa lìa 12 pháp, 12 pháp đó là những
gì? Một, xa lìa sự thân cận với người bạch y; hai, xa lìa tỳ-kheo-ni; ba, xa
lìa tiếc lẫn nhà người khác; bốn, xa lìa nơi nói lời vô ích…”9 Bồ-tát ở địa vị thứ tư và thứ năm là trọng
về xuất gia.
Kinh Hoa nghiêm: phẩm Tịnh hạnh bắt đầu từ những
việc làm của Bồ-tát tại gia rồi nói đến những việc làm của Bồ-tát xuất gia. Nói
mở rộng về những việc làm của người xuất gia, nhiều nơi “cần phẩn nguyện chúng
sanh”, so với những việc làm của người tại gia, thì nhiều hơn gấp 10 lần trở
lên, đây là trọng về những việc làm của người xuất gia.10 Địa vị thứ tư và thứ năm của phẩm Thập
địa đề cập đến việc sau khi được nghe Pháp từ Phật, “lại xuất gia tu đạo trong
các Phật Pháp ấy,”11 thì
tương đồng với những điều mà Trung phẩm
Bát-nhã đã nói. Theo kinh Hoa nghiêm
nói: Bồ-tát ở 10 địa vị phần nhiều làm vua cõi Diêm-phù-đề… vua trời Ma-hê-thủ-la,
phần nhiều biểu hiện bằng thân người tại gia thuộc quốc vương, thiên vương. Nhưng
ở sơ địa, kinh nói: “vị Bồ-tát này nếu muốn bỏ nhà, tu hành siêng săng tinh tấn
trong Phật Pháp, thì có thể liền bỏ nhà, vợ con, 5 thứ dục, y theo lời dạy của
đức Như lai để xuất gia học đạo. Khi đã xuất gia rồi, tu hành siêng năng tinh tấn,
ở trong khoảng một niệm đắc 100 tam-muội, được gặp 100 vị Phật…” Ở địa thứ hai
cũng nói như vậy, chỗ khác nhau là “đắc được 1000 tam-muội, được gặp 1000 vị Phật,
v.v.”12 Từ địa thứ ba trở xuống, nói ngắn gọn
là: “nếu tu hành siêng năng tinh tấn, trong khoảng một niệm đắc được trăm nghìn
tam-muội, v.v.”13 Bồ-tát ở mười địa là đại
Bồ-tát, là “thị hiện một cách tự tại;” phần nhiều làm quốc vương, thiên vương,
nhưng vẫn biểu thị tánh ưu việt của việc xuất gia tu đạo. Bài tụng về sơ địa
nói: “người trụ trong sơ địa này, làm vua có công đức lớn, dùng Pháp để chuyển
hóa chúng sanh, có tâm từ không gây tổn hại. Thống lãnh đất Diêm-phù, làm việc
giáo hóa tốt đẹp không gì sánh bằng, đều khiến chúng sanh trụ trong đại xả,
thành tựu trí huệ Phật. Muốn cầu đạo tối thắng, phải bỏ địa vị quốc vương, thì
mới có thể ở trong Phật giáo, tu tập dũng mãnh siêng năng, thời được 100 tam-muội,…
giáo hóa chúng sanh ở 100 cõi, đi vào 100 pháp môn.”14 Ở tại thế gian thì làm lợi ích cứu
giúp chúng sanh, công đức của vị vua cai trị theo chánh pháp rất lớn, nhưng trong
sự chứng trí huệ, công đức của tam-muội, thần thông, v.v., thì công đức của việc
xuất gia vẫn lớn hơn.
Kinh Mật tích Kim Cang lực sĩ: Mật tích Kim
Cang lực sĩ (Vajrapāṇi) nói về ‘3 cái mật’ của Bồ-tát và Phật.
Nhưng những lời Phật thuyết trong cung Mật tích lại là nghiệp báo của thiện ác,
duyên khởi vô ngã, bỏ nhà theo đạo, trở thành người không phóng dật, biết đúng
như thật về hữu và vô và 4 pháp ấn.15
Căn cứ vào giáo pháp nguyên thỉ để khi thị đạo Bồ-tát, “bỏ nhà theo đạo,” y
theo lối cũ là việc chính của người tu hành. Ở phần cuối thì nói: “có hai vị tỳ-kheo
làm Pháp sư, vị thứ nhất tên Trí Tịch, vị thứ hai tên Trì Chí Thành,” hộ trì
chánh pháp của Phật, chính là đời trước của Phật và Kim Cang lực sĩ.16
Kinh Văn-thù-sư-lợi Phật độ nghiêm tịnh: kinh
nói rằng: “việc đầu tiên là phải noi theo Như lai A-súc khi ngài còn những việc
làm căn bản của đạo Bồ-tát ở những đời trước, chí nguyện xuất gia, vui thích với
những việc làm của sa-môn, sanh ra ở đời nào cũng không trái với lời nguyện của
mình!”17 Đây là trọng về những việc làm của người
xuất gia, lấy đại nguyện của Bồ-tát A-súc làm gương mẫu.
Kinh Phú-lâu-na: trong những vấn đề mà
Phú-lâu-na nêu ra, có: “Làm thế nào để xuất gia được an lạc, nhàn tĩnh tu
‘không’ trí?” Phật đáp rằng: “Bồ-tát ma-ha-tát lìa 5 thứ dục, luôn ham thích sự
xuất gia, tâm tùy thuận sự xuất gia, hướng đến sự xuất gia. Vì không tham 5 thứ
dục nên sau khi xuất gia lìa các thứ náo loạn, sống nơi núi rừng xa xôi, không
làm mất đi pháp thiện. Bồ-tát thành tựu pháp thứ nhì này thì có thể đầy đủ tất
cả công đức.”18 Tỳ-kheo Pháp sư
Na-la-diên (Nārāyaṇa) hoằng pháp (đời trước của Di-lặc); trưởng
giả tử Ma-ha Nại-ma-đà nghe pháp và xuất gia theo Na-la-diên chính là đời trước
của Bồ-tát Kiều-việt-đâu.19 Vương
tử Đà-ma thi-lợi xuất gia làm tỳ-kheo; sau khi chết chuyển sanh làm vương tử Đắc
Niệm, xuất gia làm tỳ-kheo; lại chuyển sanh làm trưởng giả tử Da-xá, xuất gia
làm tỳ-kheo; lại chuyển thân thành đạo sư của vương tử, xuất gia làm tỳ-kheo,
sau đó đời đời đều xuất gia.20 Sau
khi Phật diệt độ, hoằng truyền Phật Pháp, đều là tỳ-kheo pháp sư.
Kinh Pháp kính: từ các việc làm tại gia của
Bồ-tát nói đến các việc làm xuất gia. Do sự bất lý tưởng của cuộc sống tại gia
nên phát sanh cảm giác nhàm chán rồi hướng đến việc xuất gia, trong kinh có tường
thuật rất sâu sắc.21 Có 500
lý gia (cư sĩ) phát đại tâm, bỏ nhà vì đạo.22
Kinh Huyễn sĩ nhân hiền: Huyễn sĩ được thọ
ký, “theo Phật cầu xuất gia,” Phật sai Di-lặc (Maitreya) cạo tóc, và thuyết ý nghĩa chân thật của sự xuất gia cho vị ấy.23
Kinh Tu-lại: Tu-lại là một vị Bồ-tát tại gia,
hướng dẫn chúng sanh học Phật đạo. Cuối cùng, quốc vương phát nguyện làm “người
giữ vườn và cung cấp (làm ‘tịnh nhân’) cho Phật và Tỳ-kheo tăng;” “500 trưởng
giả, cư sĩ, 500 phạm-chí, 500 tiểu thần đang ngồi, nghe vua thệ nguyện như tiếng
rống sư tử, nên đều phát vô thượng chánh chân đạo ý, tất cả đều từ bỏ dục, bằng
niềm tin của mình, bỏ nhà vì đạo, muốn làm sa-môn;” Tu-lại cũng đã hiện tướng
xuất gia.24
Kinh Tu-ma-đề Bồ-tát: Tu-ma-đề là con gái của
trưởng giả Úc-dà, 8 tuổi. Tu-ma-đề nói “pháp không có nam hay nữ,” dùng lời
đúng như thật “bèn thành nam tử, tóc liền rụng, thân mặc ca-sa, liền thành
sa-di.”25
Kinh A-xà-thế vương nữ A-thuật-đạt Bồ-tát: công
chúa A-thuật-đạt (không ưu sầu), 12 tuổi, vấn nạn các đại đệ tử Thanh văn, thuyết
pháp sâu xa. Sau đó đến trước Phật, “người nữ biến thành thân hình nam tử, lại
niện Tỳ-kheo tăng,”26 tương
đồng với kinh Tu-ma-đề.
Kinh Di-viết ma-ni bảo: Phật y theo nghĩa sâu
xa của Đại thừa, thuyết pháp chân thật của sa-môn, và đã điều phục một cách xảo
diệu tỳ-kheo tăng thượng mạn. “Bấy giờ, 1.200.000 người và chư thiên, quỉ thần,
loài rồng đều đắc Tu-đà-hoàn đạo, 1300 (1200?) tỳ-kheo đều đắc A-la-hán đạo.”27 Đây là kinh điển xiển dương cả Bồ-tát
đạo lẫn Thanh văn đạo.
Kinh Hiền kiếp tam-muội: kinh nói về “tam-muội
biết rõ gốc của các pháp.” Trưởng giả tử Diệu Tịnh Quảng Tâm gặp Phật, nghe được
pháp tam-muội nên “không tham sự nghiệp của người cư sĩ, xuất gia làm sa-môn,”
là bổn sanh của Như lai Nhất Thiết Công Đức Trang Nghiêm.28 Luân vương Trạch Minh (Phổ Quảng Ý)
sau khi nghe được tam-muội này cũng “bỏ nước xả thành, không tham bốn phương, cạo
bỏ râu tóc, mặc pháp ca-sa, làm bậc sa-môn.” Tu học “tam-muội biết rõ gốc của
các pháp” là tam-muội chung cho cả tại gia và xuất gia, nhưng “Phật hiểu rõ loại
định tam-muội này, như Ta vốn học pháp tam-muội này nên không thể sống đời tại
gia.” “Gặp 60 cai [na-do-tha – 600 triệu] chư Phật chánh giác, đều nghe được
tam-muội này từ các vị Phật ấy, nên đều từ bỏ [gia đình] xuất gia làm sa-môn, đắc
được hoàn toàn định này.”29 Người
hoằng truyền tam-muội này, trừ Như lai ra, như pháp sư Vô Lượng Đức Biện Tràng
Anh Biến Âm (đời trước của Như lai Đại Mục), pháp sư Vô Hạn Lượng Bảo Âm (đời
trước của Phật A-di-đà) đều là tỳ-kheo pháp sư thuộc hàng xuất gia.30
Kinh Bảo Kế Bồ-tát: tỳ-kheo Cực Diệu Tinh Tấn
nhẫn thọ các thứ hủy nhục lâu dài, cuối cùng đã cảm hóa thái tử Nghiệp Thủ. Tỳ-kheo
Cực Diệu Tinh Tấn là đời trước của đức Thích tôn.31
Kinh Bảo Võng: Phật thuyết chư Phật trong 6
phương cho đồng tử Bảo Võng, “ức số Phạm thiên và đồng tử,… vào đời mạt pháp chúng
con sẽ làm tỳ-kheo, ý chí mạnh mẽ không e sợ, sẽ dùng kinh này, ở tại quận quốc,
vức quách, huyện ấp, tuyên thuyết kinh này.”32
Kinh Văn-thù sư-lợi hiện bảo tạng: Văn-thù-sư-lợi
giáo hóa hàng đệ tử của Ni-kiền tử Tát-già, cùng đại chúng đi đến Kỳ Viên để yết
kiến Phật. Ni-kiền tử Tát-già đến, “bấy giờ, 12.000 người và Ni-kiền tử cùng bỏ
đi, số người còn lại đều thần thông, đức Thế tôn đều cạo bỏ râu tóc cho họ làm
tỳ-kheo… 12.000 người này đều sẽ được Như lai Di-lặc cạo bỏ râu tóc làm sa-môn…
Ni-kiền tử Tát-già sẽ làm đệ tử của Như lai Di-lặc, có trí huệ tối tôn giống
như vị đệ tử đệ nhất Xá-lợi-phất của Ta.”33
Sự giáo hóa của Văn-thù sư-lợi khiến cho
ngoại đạo hoặc chậm hoặc sớm cũng sẽ đều hướng đến xuất gia.
Kinh Trì thế: vương tử Vô Lượng Ý và Vô Lượng
Lực cúng dường Phật và Tỳ-kheo tăng, sau đó “cùng xuất gia trong Phật Pháp… Phật
Pháp trong thời gian cuối của 1.000 năm, hai người ấy do nhân duyên này nên lại
được xuất gia, học vấn quảng bác, trí huệ của họ rộng như biển.”34 “Bồ-tát Bảo Quang… đến trọn cuộc đời
thường tu Phạm hạnh… trong 500 đời thường sanh ở nhân gian, xuất gia học đạo.”35 Bồ-tát Vô Lượng Ý “mới 16 tuổi, xuất
gia học đạo;” gặp được 20 ức vị Phật, đều “thường biết được đời trước của mình,
đồng chơn xuất gia, tu hành Phạm hạnh, thường đắc niệm lực.”36 Kinh Trì thế phó chúc cho 500 vị Bồ-tát gồm Bạt-đà-la (Hiền Hộ), và Bồ-tát
Di-lặc, sau khi Phật diệt độ 500 năm, trong thời ác thế, hộ trì, truyền bá,
nhưng những duyên sự quá khứ, tu học và hoằng truyền được nói đó, đều là Bồ-tát
xuất gia.
Kinh Phạm-chí nữ Thủ Ý: nữ Thủ Ý “sau khi thọ
chung sẽ chuyển nữ thân; đến 84 ức kiếp không trở lại đường ác. Cúng dường
60.000 chư Phật Thế tôn, xuất gia vì đạo, đặt ý chí nơi hạnh sa-môn.”37
Kinh Minh tâm: Phạm-chí Tịnh Trụ, “Phật liền
chấp nhận cho làm sa-môn, râu tóc liền rụng, pháp y ở trên thân.”38
Kinh Ma nghịch: Văn-thù căn cứ theo sự tự chứng
về thắng nghĩa nên nói: “Ta không hành thiện đối với các pháp, cũng lại không
hành phi biện đối với các pháp,” mà dùng “phụng hành cấm giới chưa từng khiếm
khuyết, rỉ chảy,” “thường ở nơi nhàn tĩnh nên tâm được yên lặng,” “tu 4 hiền
thánh chỉ túc tri tiết” làm thiện.39
Nếu như không tuân theo lời dạy của ma thì đắc được 12 sự, có thể “đắc được
kinh điển, đạt đến đạo lớn của Phật.” Trong 12 sự ấy, có “đời đời sanh ra luôn
giữ đạo tâm, thường được xuất gia mà làm sa-môn, nhàn tĩnh không lo sợ,”40 cũng là xem trọng sự thực hành của Bồ-tát
xuất gia.
Kinh Hải Long Vương: trong vấn đáp về 49 sự của
Bồ-tát, có “nghe rồi có thể phụng hành,” “đầy đủ đức của người xuất gia,” “ly
cư (xuất gia) tùy thuận giới,” “từ bỏ gánh nặng,” “thường ở dưới gốc cây,” “vui
thích ở nơi thanh vắng,” “mà ở một mình an vui,” “lìa các thứ dua nịnh,” “đầy đủ
trí huệ của người xuất gia” – 9 sự, đều là sự thực hành của Bồ-tát xuất gia.41 Vua Vô Tận Phước đã nghe được tam-muội
bảo sự từ Phật, “xuất gia vì đạo nên làm sa-môn. Các người con cũng vậy, đều
làm sa-môn. Bấy giờ người trong nước thấy vua bỏ nước nên 60.000 người đều làm
sa-môn. Vua Vô Tận Phước là đời trước của Bồ-tát Hải Long Vương.42
Kinh Huệ ấn tam-muội: Luân vương Huệ Thượng
nghe pháp từ Phật, được “tam-muội hi vọng,” nên “lập tức bỏ nước, cạo bỏ râu
tóc, rồi đi vào núi sâu, thọ trì và thực hành chánh giới.” Đến sau khi Phật nhập
niết-bàn, “thuyết tam-muội (huệ) ấn cho mọi người:” đây là đời trước của Phật
A-di-đà. “Bấy giờ, 1.000 người con (của Luân vương) thành Phật trong (hiền) kiếp.
Nay đại chúng tụ hội trước mặt Ta, thời đều bỏ nhà, thảy làm tỳ-kheo.” Kinh nói
Bồ-tát hộ pháp trong thời vị lai, mà người truyền thụ pháp môn là lấy Bồ-tát xuất
gia làm chủ.43
Kinh Chư pháp vô hành: tỳ-kheo pháp sư Tịnh Oai
Nghi là người thực hành Đại thừa; tỳ khoe Hữu Oai Nghi, gần với hành giả Thanh
văn.44 Tỳ-kheo Bồ-tát Hỉ Căn là người trọng về
thật tướng vô sở đắc; Thắng Ý - “tỳ-kheo pháp sư thực hành Bồ-tát đạo,” là người
trọng về cấm giới, hành đầu-đà, thiền định.45
Hai chuyện bổn sanh này nói về sự bất đồng giữa Bồ-tát với Thanh văn, giữa Bồ-tát
với Bồ-tát, đã phản ánh tình hình thật tế của giới Phật giáo. Người hoằng truyền
pháp Đại thừa đều là tỳ-kheo pháp sư Bồ-tát.
Kinh Hoa thủ: trong kinh nói rất nhiều về
duyên sự trong quá khứ và đương thời. Như Luân vương Văn Lực theo Phật nghe
pháp, đem tất cả sở hữu cúng dường lên Phật và Tăng, “đã phụng hành bố thì xong,
bèn xuất gia vì đạo,” vô số người đều xuất gia theo. Luân vương Văn Lực là đời
trước của Bồ-tát Đông Phương Pháp Luân.46
Hai vị vương tử Vô Ưu và Ly Ưu phát tâm, luận về “tâm bồ-đề chân thật,” “xuất
gia tu đạo theo Phật An Vương.”47 Thái tử
Diệu Đức từ bỏ 5 thứ dục, xuất gia theo Phật An Vương, vô lượng vô số người và
vua Kiện Đức cũng phát tâm xuất gia, đây là bổn sanh của đức Thích tôn và Bồ-tát
Kiên Ý.48 Cư sĩ Kiên Chúng (người giữ tạng Pháp
sau khi Phật diệt độ) theo pháp sư Thanh Minh cầu pháp. Sau khi chết, gặp đức
Phật Đại Kiên, “xuất gia trong pháp của Phật Đại Kiên.” Sau đó lại gặp được Phật
Tu-di Kiên, “xuất gia trong Phật Pháp:” cư sĩ Kiên Chúng là đời trước của Phật
Đĩnh Quang.49 Vương tử Đắc Niệm phát
tâm xuất gia, khắc phục sự dụ dỗ và phá hoại của Ma vương, rồi “xuất gia trong
pháp của Phật Đức Vương Minh.” Bấy giờ, phụ vương cũng xuất gia, chính là đời
trước của đức Thích tôn. Ma vương nhận được sự ảnh hưởng của vương tử Đức Niệm
nên cũng chân thành xuất gia để tránh khỏi khổ báo của địa ngục.50 Cư sĩ Tuyển Trạch xuất gia, tu hành Phạm
hạnh.51 Đồng tử Tuyển Trạch xuất gia, luận về
pháp “xuất gia chân thật.”52 Vương
tử Pháp Hành chỉ cho vua thấy sự trị quốc không thanh tịnh. Vương tử xuất gia,
vua và phu nhân, v.v., cũng xuất gia trong pháp. Vương tử Pháp Hành là đời trước
của đức Thích tôn.53
Ở trên, những người
hoằng truyền đều là xuất gia. Trong kinh tuy cũng nói: trưởng giả tử Lợi Ý theo
tỳ-kheo pháp sư Diệu Trí nghe pháp, phát đại bồ-đề tâm; vương tử Lạc Pháp cầu
pháp; người hành khất tên Tuyển Trạch theo Phật phát tâm; trưởng giả Lạc Thiện
theo tỳ-kheo pháp sư Vi-tu-la nghe pháp và cúng dường,54 đều không xuất gia nhưng Lợi Ý, Tuyển
Trạch, Lạc Thiện đều nghe pháp từ nơi Phật và tỳ-kheo Bồ-tát.
Kinh Phật thăng Đao-lợi thiên vị mẫu thuyết pháp:
thiên tử Nguyệt Thị “sanh nơi trời Đâu-suất của Bồ-tát Di-lặc… Khi Bồ-tát Di-lặc
thành tựu chánh giác,… bỏ gia đình, ly gia vì đạo, làm bậc sa-môn, lãnh thọ
Kinh pháp, trọn cả cuộc đời thường trì chánh pháp. Sau khi Phật diệt độ, bàn
dùng pháp này cứu giúp quần sanh.”55
Kinh Đại thọ Khẩn-na-la vương sở vấn: trong
80 loại tâm cao quý [bảo tâm] của tam-muội bảo trụ cần phải tu tập, có thường
xuất gia bảo tâm, thánh chủng thiểu dục tri túc bảo tâm, trang nghiêm nhất thiết
đầu-đà công đức bảo tâm, độc xử bảo tâm.56
Trong giới ba-la-mật, nói đến “điều phục xuất gia được gọi là giới;” “kiên cố muốn
tu hành được gọi là giới;” “kiên định thiểu dục và tri túc được gọi là giới;”
“thích tu đầu-đà được gọi là giới.”57
Trong 32 Bồ-tát khí cũng có “khí xuất gia là lìa sự trói buộc và chướng ngại,”
“khí nơi a-lan-nhã là nơi ít sự vụ và không có não loạn.”58 Những điều này đều đã biểu thị tính
quan trọng của sự xuất gia. Còn có chuyện bổn sanh của vua Đại thọ khẩn-na-la;
vua chuyển luân Ni-nê-đà-la cúng dường Như lai Bảo Tụ và Bồ-tát tăng, phát đạo
tâm chân chánh vô thượng. “Từ bỏ vương vị,… cạo bỏ râu tóc, xuất gia bằng niềm
tin trong Pháp của đức Phật ấy… Đều có khả năng thọ trì từ đầu chí cuối các
pháp do vị Phật ấy thuyết.” Trong 1000 người con, trừ vương tử nhỏ nhất, còn lại
cũng đều thứ tự xuất gia.59
Kinh Duy-ma-cật sở thuyết: vương tử Nguyệt
Cái xuất gia theo Phật Dược Sư, tu Bồ-tát hành, là đời trước của đức Thích tôn.60
Kinh Ban-chu tam-muội: trong thời quá khứ, “trưởng
giả tử Tu-đạt sau khi nghe được tam-muội (ban-chu) này thì rất hoan hỉ, liền tụng
lại và ghi nhớ rất thuần thục, được làm sa-môn.”61
Thời quá khứ “ở Diêm-phù-đề có vị tỳ-kheo cao minh nên là Trân Bảo, bấy giờ tỳ-kheo
ấy thuyết tam-muội này cho 4 bộ đệ tử - tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di.
Thái tử Phạm-ma-đạt… phát ý cầu Phật đạo nên cùng đi với 1000 người, ở nơi vị tỳ-kheo
này cạo tóc làm sa-môn, liền cầu học tam-muội ấy từ vị tỳ-kheo này,… chính mình
học, lại dạy người khác học.”62 Thời
quá khứ “có vị tỳ-kheo tên Hòa Luân, sau khi đức Phật ấy bát-niết-bàn, vị tỳ-kheo
này hành trì tam-muội này.”63
Kinh A-xà-thế vương: chuyện bổn sanh của
Văn-thù và đức Thích tôn: tỳ-kheo pháp sư Huệ Vương đã hướng dẫn đứa bé tên Ly
Cấu Vương cúng Phật, phát tâm. Về sau, đứa bé với “cha mẹ và 500 người cùng
phát tâm a-nậu-đa-la-tam-da-tam-bồ, thảy đều làm sa-môn nơi Phật A-ba-la-kỳ-đà-đà.”64
Các kinh Đại thừa
đã dẫn ở trên, hoặc là những kinh do luận của Long Thọ từng trích dẫn, hoặc là
được Trúc Pháp Hộ từng dịch ra vào đời Tây Tấn, đều là Thánh điển của Đại thừa
sơ kỳ. Trong số gần 30 bộ kinh này, cũng có nói rộng về việc Bồ-tát hộ trì vào
đời mạt pháp, nhưng trong những chuyện bổn sanh của Phật và Bồ-tát, trong những
Bồ-tát hành được đề cập đến, thì Bồ-tát xuất gia là pháp sư hoằng truyền Phật
Pháp. Đương nhiên, trong kinh Đại thừa sơ kỳ cũng có xem trọng Bồ-tát tại gia,
những Bồ-tát tại gia mà hoằng truyền giáo pháp, như:
Kinh Phật mẫu xuất sanh tam pháp tạng
bát-nhã-ba-la-mật-đa: “Bồ-tát tại gia được gọi là chánh sĩ, cũng được gọi
là đại trượng phu, cũng được gọi là khả ái sĩ phu, cũng được gọi là tối thượng
sĩ phu, cũng được gọi là thiện tướng sĩ phu, cũng được gọi là sĩ phu trung tiên,
cũng được gọi là cát tường sĩ phu, cũng được gọi là hoa sen nhiều màu sắc trong
hàng sĩ phu, cũng được gọi là đóa sen trắng trong hàng sĩ phu, cũng được gọi là
bậc sĩ phu có chánh tri, cũng được gọi là con rồng trong loài người, cũng được
gọi là bậc sư tử trong loài người, cũng được gọi là người điều khiển xe! Bồ-tát
tuy còn tại gia nhưng có khả năng thành tựu nhiều thứ công đức, luôn ưa thích
làm việc lợi lạc cho tất cả chúng sanh.”65
Đặc biệt kinh dành nhiều lời tán thán đối với vị Bồ-tát tại gia lên địa vị
không còn thoái chuyển; phần thứ 4 và phần thứ 5 của kinh Đại Bát-nhã được dịch vào đời Đường cũng có những lời tán thán
tương tự.66 Đây là Hạ phẩm Bát-nhã
- bản dịch từ thế kỷ thứ 7 AD. về sau, nhưng các bản dịch vào đời Hán, Ngô, Tấn
và bản dịch của Cưu-ma-la-thập, Trung phẩm và Thượng phẩm Bát-nhã tuy có nói tại
gia mà đắc được địa vị không còn thoái chuyển nhưng lại thiếu đoạn tán thán
này, có thể thấy nó là đoạn được người đời sau thêm vào.
Kinh Pháp kính: từ Bồ-tát hành của tại gia,
chán bỏ tại gia rồi nói đến Bồ-tát hành của xuất gia, cuối cùng nói: “Thậm lý
gia (trưởng giả Uất-già) thưa ngài A-nan rằng: Con không xem sự tham luyến thân
thể là an vui mà muốn khiến cho chúng sanh được an vui nên con sống tại gia. Lại
nữa, đức Như lai tự biết rõ rằng con vì chúng sanh ấy nên sống tại gia mà thọ
(giới) kiên cố. Bấy giờ Chúng-hựu (đức
Thế tôn)… bảo A-nan rằng: Do đó trong Hiền kiếp có rất nhiều người bỏ gia đình
để thành tựu khai sĩ [xuất gia]… Trong 1000 người khai sĩ bỏ gia đình tu đạo thì
không người nào có thể có cái đức ấy, nhưng người lý gia [trưởng giả] này có
cái đức ấy.”67 trưởng giả Uất-già sống
tại gia nhưng tu giới xuất gia, công đức so với Bồ-tát xuất gia thì lại lớn
hơn! Ở đây không phải nói chung cho Bồ-tát tại gia thông thường, mà là Bồ-tát tại
gia tu giới xuất gia (lìa dâm dục). Không xuất gia nhưng sống như người xuất
gia, đây là người đáng được tán thán. Biểu hiện thân người tại gia nhưng phương
tiện để nhiếp hóa chúng sanh, so với Bồ-tát xuất gia, phải rộng lớn hơn nhiều.
Kinh Tỳ-bà-lăng-kỳ của kinh Trung A-hàm nói: người thợ gốm tên Nan-đề-ba-la
sống tại gia nhưng rất thích đời sống xuất gia nên được Phật khen ngợi. Vị ấy
thúc giục người bạn tốt của mình là đồng tử Ưu-đa-la đến yết kiến đức Phật, rồi
xuất gia, Ưu-đa-la chính là đời trước của đức Thích tôn.68 Ở đây có thể thấy, người tại gia nhưng
thực hành đời sống xuất gia thì luôn luôn được khen ngợi. Trưởng giả Uất-già sống
tại gia nhưng thực hành đời sống xuất gia nên xứng đáng được khen ngợi, nhưng theo
toàn kinh để nói, thì vẫn là đề cao Bồ-tát xuất gia.
Kinh Tu-lại: Chi-khiêm dịch lần đầu vào đời
Ngô.69 Bản kinh Tu-lại hiện đang còn là bản do Bạch Diên dịch vào đời Tào Ngụy và bản
do Chi Thí Lôn dịch vào đời Tiền Lương; bản do Bồ-đề-lưu-chí dịch vào đời Đường
được biên tập thành Thiện Thuận Bồ-tát hội thứ 27 của kinh Đại Bảo tích. Tu-lại là một người nghèo của nước Xá-vệ, người ta gọi
ông là ‘Tu-lại nghèo’, cuộc sống mà ông trải qua giống như người xuất gia. Hằng
ngày ông đều đến yết kiến Phật 3 lần, “mỗi khi ông đến yết kiến Phật thì thường
có vô số trăm người cùng đi theo với ông.” Tu-lại nghiêm trì 5 giới, trải qua đời
sống rất nghèo khổ nhưng không xem đó là nghèo, ngược lại, vua Ba-tư-nặc bị xem
là người nghèo thiếu nhất. Phật thọ ký cho Tu-lại, trong pháp hội có rất nhiều
người xuất gia, Tu-lại cũng xuất gia làm sa-môn.70
Tu-lại là Bồ-tát tại gia, đã dẫn dắt mọi người đến yết kiến Phật, trên mặt hoằng
truyền Phật Pháp, vẫn ở địa vị đi theo tán thán giúp đỡ, quay về Phật giáo thuộc
xuất gia.
Ngoài Bồ-tát ở
phương khác, Bồ-tát thuộc hàng trời, Bồ-tát thuộc quỉ, súc sanh như Dạ-xoa,
v.v., những kinh đển lấy ‘Bồ-tát thuộc người’ tại gia làm chủ thể cũng không
ít. Như kinh Trưởng giả tử Chế, kinh Tu-ma-đề trưởng giả, kinh Tư-ha-muội, kinh Bồ-tát sanh địa: Phật thuyết pháp cho hành đệ tử tại gia, sau khi
nghe pháp, họ phát đại tâm, Phật thọ ký cho họ.71
Đây là theo Phật để tu học, không có dấu tích hoằng truyền Phật Pháp. Như kinh Phạm-chí nữ Thủ Ý, kinh Huyễn sĩ Nhân Hiền, kinh A-xà-thế vương nữ A-thuật-đạt Bồ-tát,
kinh Long thí nữ, kinh Tu-ma-đề Bồ-tát, cuối cùng đều theo Phật
xuất gia, cũng chính là quay về Phật giáo thuộc xuất gia.72 Kinh Đại tịnh pháp môn, dâm nữ Thượng Quang Kim Thủ và trưởng giả tử Úy
Gian nhân sự giáo hóa của ngài Văn-thù nên được ngộ nhập, Phật thọ ký cho họ,73 cũng không có ý nghĩa hoằng truyền Phật
Pháp. Có ý nghĩa hoằng pháp, như Bồ-tát chuyển thân nữ nạn vấn ngài Tu-bồ-đề (đến
khất thực) của kinh Thuận quyền phương tiện,
là một vị đại Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo để giáo hóa. Phật nói: “(Bồ-tát)
chuyển nữ thân này biến khỏi thế giới Diệu Lạc của Phật A-súc để đến sanh nơi
cõi này là muốn khai hóa tất cả chúng sanh nên thuận theo phương tiện quyền xảo
hiện làm thân người nữ.”74 Kinh
có chuyện tương đồng với kinh Thuận quyền
phương tiện này là kinh Duy-ma-cật.
“Ở cõi nước tên Diệu Hỉ có đức Phật hiệu là Vô Động (A-súc), Duy-ma-cật biến khỏi
nước đó để đến sanh nơi cõi này.”75
Duy-ma-cật hiện thân trưởng giả, dùng phương tiện để giáo hóa, cũng quở trách
và nạn vấn 10 vị đại để tử Thanh văn. Kinh Ly
Cấu Thí nữ: con gái của vua Ba-tư-nặc tên là Ly Cấu Thí, đã quở trách và nạn
vấn 8 vị đại đệ tử Thanh văn đi đến khất thực và 8 vị đại Bồ-tát, khiến họ yên
lặng không trả lời được. Sau đó cùng với đại chúng đến yết kiến Phật, và hỏi sự
các việc làm của Bồ-tát. Vốn dĩ sự phát tâm của cô Ly Cấu Thí còn sớm hơn nhiều
so với Văn-thù-sư-lợi.76 Kinh Vô Cấu Hiền nữ: người nữ này khi còn ở
trong thai mẹ đã biết chấp tay nghe kinh, chim, thú, côn trùng cũng đều ở trong
thai ấy nghe kinh. Sau khi được sanh ra, người nữ này sanh trong hoa sen, vị
này là “đến từ nơi Phật Bãi-lâu-diên Pháp Tập ở phương Đông Nam;” Phật khen vị ấy
“khi còn ở trong bào thai, ngươi đã dẫn dắt chúng sanh.”77 Người nữ Ly Cấu Hiền, người nữ Ly Cấu
Thí, Bồ-tát chuyển làm thân nữ, trưởng giả Duy-ma-cật là chuyện có ý nghĩa dùng
thân Bồ-tát tại gia để giáo hóa chúng sanh, hoằng truyền Phật Pháp, nhưng đều
là những đại Bồ-tát nương vào lời nguyện để sanh trở lại.
Chuyện nói về Bồ-tát
tại gia nhưng có ý nghĩa hoằng truyền Phật Pháp, như trong kinh Ban-chu tam-muội, Bồ-tát Bạt-đà-hòa (Bhadrapāla, dịch nghĩa là Hiền Hộ) là vị đứng đầu trong 8 vị Bồ-tát, hoằng truyền
và hành trì tam-muội ban-chu. Tam-muội ban-chu – tam-muội niệm Phật để quán sắc
thân của Phật, là tam-muội được Phật thuyết cho Hiền Hộ. Phật nói: “Các vị gồm
Bạt-đà-hòa, v.v. (8 người) là thầy trong 500 vị Bồ-tát, thường hành trì trong
chánh pháp, hội họp theo giáo pháp, không ai không hoan hỉ.”78 “Bồ-tát Bạt-đà-hòa… Bồ-tát Hòa Luân Điều
cùng bạch Phật rằng: Sau khi Phật bát-nê-hoàn, trong thời loạn lạc, chúng con sẽ
cùng hộ trì kinh này, khiến cho Phật đạo tồn tại lâu dài. Nếu có người nào chưa
được nghe kinh này thì chúng con sẽ cùng truyền dạy cho họ. Bản kinh sâu xa này
ở thế gian có ít người tin tưởng, chúng con sẽ làm cho họ đều thọ trì nó.”79 Việc tám vị đại Bồ-tát gồm Hiền Hộ,
v.v., thọ trì, hoằng truyền tam-muội ban-chu, có kinh văn làm chứng rõ ràng.
Ngoài kinh Ban-chu tam-muội ra, nói đến
8 vị đại Bồ-tát, còn có kinh Hiền kiếp
tam-muội, kinh A-xà-thế vương nữ
A-thuật-đạt Bồ-tát, kinh Bát cát tường
thần chú.80 Kinh Bát cát tường thần chú nói: “Nếu có bệnh
tật nguy cấp thì nên kêu tên của 8 người chúng tôi, sẽ lập tức được thoát khỏi
bệnh. Khi thọ mạng sắp kết thúc, 8 người chúng tôi sẽ liền bay đến đưa trở lại,”81 8 vị đại Bồ-tát ở trong truyền thuyết
đã trở thành pháp thân đại sĩ. Trong quá trình khai triển của Phật Pháp Đại thừa,
8 vị đại Bồ-tát gồm Hiền Hộ, v.v., đã trở thành ’16 vị chánh sĩ gồm Hiền Hộ,
v.v.,”82 như kinh Trì Tâm Phạm thiên sở vấn, kinh Bồ-tát
Anh Lạc, kinh Hoa thủ, kinh Bảo vũ, kinh Quán sát chư pháp hành, kinh Đại
phương quảng Như lai bí mật tạng, hội Vô Lượng Thọ Như lai, hội Tịnh tín đồng
nữ, hội Hiền Hộ trưởng giả của kinh Đại Bảo
tích đã nói đến. Từ 8 vị Bồ-tát rồi thành 16 vị Bồ-tát, đã cho thấy thứ tự
trước sau của kinh điển được biên tập ra, Bồ-tát tại gia càng ngày dần tăng nhiều
thêm. Tám vị Bồ-tát gồm Hiền Hộ, v.v., theo kinh Ban-chu tam-muội, đều là những người ở 6 thành lớn của Trung Ấn-độ.83 Trong kinh Đại thừa, truyền thuyết rất
thịnh hành, luôn nói Bồ-tát Hiền Hộ, v.v., hộ trì Phật Pháp; thuyết nói 8 người
ban đầu, hẳn có ít nhiều phần sự thật (không nhất định là 8 vị, 8 và 16 đều là
những số cố định của Phật giáo) vậy!
Truyện cầu pháp của
kinh Bát-nhã và kinh Hoa nghiêm đều có bóng dáng của Bồ-tát tại
gia trì pháp và hoằng pháp. Trong kinh Bát-nhã, Tát-đà-ba-luân (Sadāpraru-dita) bây giờ là Bồ-tát ở phương khác thuộc cõi Phật Đại Lôi Âm. Từ trước,
Tát-đà-ba-luân dùng thân tại gia, chuyên cần cầu Phật Pháp. Bấy giờ, vị thuyết
pháp cho Tát-đà-ba-luân là Bồ-tát Đàm-mô-kiệt (Pháp Dũng). Đàm-mô-kiệt (Dharmodgata) là vị chủ của thành Chúng Hương (Gandhavatī), ở nơi đài cao, cúng dường bát-nhã
ba-la-mật của “quyển kinh bằng vàng;” lại thuyết bát-nhã ba-la-mật cho đại
chúng.84 Hạ phẩm Bát-nhã đã nói đến công đức của
việc biên chép quyển kinh và cúng dường quyển kinh; ‘quyển kinh bằng vàng” của
Bồ-tát Đàm-mô-kiệt, thực hiện cúng dường nhiều thứ, có thể thấy được phong trào
và không khí biên chép quyển kinh và cúng dường rất là hưng thịnh! Ở đây, mặc
dù truyền thuyết nói là chuyện quá khứ, nhưng hẳn đã phản ánh thời kỳ cuối của
Trung phẩm Bát-nhã, pháp môn Bát-nhã được hoằng truyền ở phương Bắc (thành
Chúng Hương chính là Kiền-đà-la), có sự thật của pháp sư Bồ-tát tại gia. Phẩm
Nhập pháp giới của kinh Hoa nghiêm tường
thuật lại lịch trình đồng tử Thiện Tài (Sudhana) đi về phương Nam cầu pháp. Đầu tiên tham
phỏng 3 vị tỳ-kheo, đã đại biểu cho Tam bảo. Phẩm Nhập pháp giới đã chịu ảnh hưởng
chuyện Bổn sanh của Bồ-tát, là Đại thừa hóa chuyện Bổn sanh của Bồ-tát. Chuyện
Bổn sanh của đức Thích tôn theo truyền thuyết nói, khi ngài tu Bồ-tát đạo, đa số
là thân tại gia. Còn nữa, phương tiện thiện xảo của đại Bồ-tát, ở nhân gia, là
dùng thân phận khác nhau, chức nghiệp khác nhau, giáo hóa khắp tất cả tầng lớp
để họ đi theo Phật Pháp. Thiện tri thức của phẩm Nhập pháp giới đều là phương
tiện giáo hóa của pháp thân đại sĩ, đã có đầy đủ thành phần lý tưởng. Đa số là
sự dẫn dắt của Bồ-tát tại gia, không thể phù hợp với thực tế. Nhưng lý tưởng
này sẽ ít nhiều phản ánh Phật giáo theo hiện thực, chí ít, sự hoằng truyền Phật
Pháp của Bồ-tát tại gia (hoàn toàn không nhất thiết đều là tại gia) là việc từng
có thật ở Nam Ấn-độ. Hai truyền thuyết lớn về việc cầu pháp của Bát-nhã và Hoa nghiêm, ước chừng được biên tập thành vào trước sau năm 150 AD.
Ở trên đã kiểm
tra chi tiết các kinh Đại thừa sơ kỳ, có thể nói một cách khẳng định rằng: những
người hoằng truyền của Đại thừa sơ kỳ, đa số là tỳ-kheo, cũng có số ít là người
tại gia. Bây giờ phải nghiên cứu thêm một bước nữa, là những ‘pháp sư’ liên hệ
cả tại gia và xuất gia. Quyển 4 của kinh Đạo
hành Bát-nhã ba-la-mật (T. 8, tr. 443c) nói:
“Nếu kẻ thiện nam, người thiện nữ nào làm pháp
sư thuyết pháp vào ngày mồng 8, ngày 14, ngày 15 của tháng sẽ đắc công đức
không thể tính kể được!”
Pháp sư thuyết
pháp là kẻ thiện nam, người thiện nữ. Trong kinh Phóng quang Bát-nhã, tương đương với đoạn này, cũng nói: “Kẻ thiện
nam, người thiện nữ nào làm pháp sư, nếu thuyết bát-nhã ba-la-mật vào ngày 14,
ngày 15 của tháng,… công đức đạt được không thể tính kể.”85 Phẩm Pháp sư của kinh Pháp hoa cũng nói: “Nếu có kẻ thiện nam,
người thiện nữ nào thọ trì, đọc, tụng, giải thích, biên chép, cúng dường các thứ
cho trọn kinh Pháp hoa, thậm chí chỉ
một câu [của kinh Pháp hoa].”86 Kẻ thiện nam, người thiện nữ, thông
thường được giải thích đó là người thiện tín tại gia, cho nên ‘pháp sư’ hoằng
truyền Đại thừa hoặc có người cho rằng người tại gia nhiều; hoặc có người cho rằng
Đại thừa xuất xứ từ người tại gia. Nhưng Bát-nhã nguyên thỉ xuất xứ từ ‘loại
tam-muội không [chấp] thị các pháp’(a)
của hạnh a-lan-nhã.87 Kinh A-súc Phật quốc nói Bồ-tát A-súc lập
nguyện “đời đời làm sa-môn;” đã đề cập đến ‘pháp sư tỳ-kheo’ thuyết pháp.88 Kinh A-di-đà nói người vãng sanh tối đệ nhất trong những người vãng sanh
là sa-môn.89 Kinh A-xà-thế vương, do Chi Khiêm dịch, nói đến
“tỳ-kheo thấu suốt kinh;” bản dịch khác là kinh Văn-thù-chi-lợi phổ triệu tam-muội, nói: “có một tỳ-kheo làm pháp
sư,”90 theo những Đại thừa sơ kỳ mà được dịch
ra hơi sớm để xét, việc nói người hoằng truyền là hàng tại gia nhiều hơn, hoặc
xuất xứ từ người tại gia, là điều khó tưởng tượng được. Từ ‘pháp sư’ là dịch
sang Hán, nguyên ngữ là dharma-bhāṇaka.
Từ bhāṇaka, trong Luật điển dịch âm là ‘bối’, ‘bối-nặc’, là một hạng tỳ-kheo. Ở
trên từng nói đến: bối-nặc là từ có liên quan với âm thanh, khi truyền đến
Trung Quốc, đã phân hóa thành ‘chuyển đọc’ của đọc tụng kinh điển, ‘Phạm-bối’ của
ca tán Tam bảo, ‘xướng đạo’ của tuyên thuyết Phật Pháp. Đọc tụng, ca tụng, (xướng
đạo) thuyết pháp đều là bối-nặc. Kinh Di-lan
vương vấn thuộc Nam truyền, nói trong Phật Pháp có nhiều hạng tỳ-kheo khác
nhau, như “Sư thuyết pháp,… người tụng Bổn
sanh, người tụng Trường bộ, người
tụng Trung bộ, người tụng Tương ưng bộ, người tụng Tăng chi bộ, người tụng Tiểu bộ.”91
‘Người tụng’ chính là bhāṇaka (bối-nặc). Bối-nặc cũng có thể thuyết pháp, như
luật Tứ phần cho phép “dùng âm thanh
ca vịnh để thuyết pháp.”92 Nhưng
sự thuyết pháp của bối-nặc thì khác với ‘sư thuyết pháp’ (dharma-kathika) đơn
thuần, như pháp sư giảng kinh ở Trung Quốc khác với ‘giảng theo thế tục’ vừa
hát vừa nói. Trong hàng tỳ-kheo của Phật giáo Bộ phái có một hạng bối-nặc đọc tụng,
ca tụng hoặc thuyết pháp (có hay không cho phép dùng âm ca vịnh để thuyết
pháp). Tỳ-kheo bối-nặc, trong pháp Đại thừa, chính là pháp sư – người bối-nặc về
pháp, pháp sư là từ tỳ-kheo bối-nặc diễn tiến mà có. Kinh Bát-nhã nói “kẻ thiện nam, người thiện nữ nào làm pháp sư,” đây là
sự thông tục hóa của kinh Bát-nhã.
Bát-nhã nguyên thỉ là ‘tam-muội không [chấp] thọ các pháp’ thuộc sự chứng của
trí, người thông thường thì khó tin tưởng, thọ trì và thực hành được. Như phẩm
đầu của Hạ phẩm Bát-nhã chủ yếu là Bát-nhã nguyên thỉ. Phẩm Thích Đề-hoàn nhân
thứ 2 khuyến khích đại chúng phát tâm bồ-đề, tu học bát-nhã. Nhưng thính chúng
thông thường biết được “điều nào được Tu-bồ-đề tuyên thuyết, đàm luận thì điều
đó khó thể hiểu được;”(b) “Tu-bồ-đề
muốn khiến cho dễ hiểu được nghĩa này, nhưng lại chuyển thành sâu sắc, vi diệu.(c)”93
Do đó từ phẩm Tháp thứ 3 đến phẩm Tá trợ thứ 6 đã đề xuất phương tiện nông cạn,
dễ dàng để có thể học được: một mặt, nói công đức hiện đời, công đức đời sau của
Bát-nhã để dẫn dụ, khuyến khích phát lòng tín ngưỡng và tìm cầu của người nghe.
Mặt khác, dùng nghe, thọ trì, đọc, tụng, giải thích, biên chép, cúng dường,
(đem quyển kinh) cho người khác, ghi nhớ chính xác, thực hành đúng theo lời
kinh nói làm phương tiện tu học Bát-nhã, cũng chính là phương tiện văn, tư (ghi
nhớ, suy nghĩ), tu tập. Bấy giờ, có việc biên chép, lưu hành kinh điển nên có
việc chép kinh, cúng dường kinh điển, đem kinh điển bố thí cho người khác; mà
nghe, thọ trì, đọc, tụng, giải thích, ghi nhớ chính xác, thực hành đúng theo lời
kinh nói, là phương tiện đã có sẵn từ kinh A-hàm trở đi. Ghi nhớ chính xác, thực
hành đúng theo lời kinh nói là điều mà người mới học không dễ gì tu học được,
cho nên sự giáo hóa theo thông tục của pháp môn Bát-nhã, ngoài nghe ra, còn xem
trọng sự thọ trì, đọc, tụng, giải thích (thuyết cho người khác), biên chép,
cúng dường. Kinh Pháp hoa, chịu ảnh
hưởng của pháp môn Bát-nhã, cũng nói thọ trì, đọc, tụng, v.v., được gọi là “có
5 hạng (hoặc nói là 6 hạng) pháp sư.” Cho nên sự thọ trì và hoằng truyền pháp
môn Bát-nhã có hai tầng sâu và cạn: tầng cạn chú trọng về sự nghe – thọ trì, đọc,
tụng, giải thích, biên chép, cúng dường, bố thí cho kẻ khác, chủ yếu là những kẻ
nam tử, người thiện nữ thông thường. Tầng sâu chú trọng về tư, tu – tư duy, tu
tập, tương ứng, an trụ, đi vào, phần lớn trong kinh gọi người đó là Bồ-tát. Kẻ
thiện nam, người thiện nữ là người thông thường nhưng dẫn dắt khiến kẻ khác hướng
đến Bồ-tát đạo. Sự nhiếp hóa của pháp môn Bát-nhã là dùng âm thanh vi diệu để đọc
tụng, mời đại chúng lắng nghe (Trung Quốc gọi là chuyển độc); hoặc dùng diệu âm
để thuyết pháp (Trung Quốc gọi là xướng đạo); hoặc biên chép quyển kinh, cúng
dường. Người tán tụng, thuyết pháp, biên chép được gọi là pháp sư – người bối-nặc
pháp. Bối-nặc vốn là một hạng tỳ-kheo, cho nên pháp sư mà thông với cả tại gia
và xuất gia, hẳn phải là từ tỳ-kheo pháp sư rồi diễn tiến đến tại gia. Khi pháp
môn Bát-nhã mới được truyền bá, trừ số ít người có sự nhẫn và ngộ nhập sâu xa
ra, trong giáo đoàn Bộ phái có sẵn, dầu tương đối đồng tình, cũng không dễ dàng
lập tức thay đổi, cho nên khi Đại thừa mới hưng khởi, tỳ-kheo Bồ-tát là số ít,
trong Tăng đoàn không có lực lượng nên luôn luôn bị hắt hủi, đây là điều được
kinh Đại thừa tường thuật rõ ràng. Bát-nhã quá sâu xa, mà trong giáo đoàn có sẵn
lại không dễ gì khai triển được, cho nên những hành giả Bát-nhã, vào 6 ngày
trai, triển khai giáo hóa một cách bình thường theo thông tục để nhiếp hóa kẻ
thiện nam, người thiện nữ. Đối với việc đọc, tụng, giải thích – pháp sư nhiếp
hóa tín chúng thông thường, do tỳ-kheo Bồ-tát vẫn còn ít nên tín tâm chân
thành, lý giải rõ ràng, triệt để nên những kẻ thiện nam, người thiện nữ có âm thanh
hay sẽ ra hỗ trợ rồi trở thành pháp sư.94
Trong chúng tại gia cũng có khả năng là có pháp sư kiệt xuất, ưu việt. Những kẻ
thiện nam, người tín nữ tin tưởng và thực hành pháp môn Bát-nhã nhiều hơn nên
đã ảnh hưởng đến giáo đoàn có sẵn, chờ đợi đến lúc tỳ-kheo Bồ-tát, tỳ-kheo pháp
sư Bồ-tát có nhiều hơn; những kẻ thiện nam, người thiện nữ ấy cuối cùng lại trở
thành tín chúng của Phật giáo Đại thừa (Bồ-tát tại gia như Bà-thái-tư-bà-mê, Thắng
Quân, cuối cùng vẫn là số rất ít).
Pháp môn Bát-nhã xem kẻ
thiện nam, người thiện nữ là pháp sư, đó là nhiếp hóa theo thông thường, không
thể nói pháp môn Bát-nhã là xem trọng về người tại gia. Khi kinh nói thọ trì, đọc,
tụng, giải thích, biên chép, cúng dường, thì nói đến kẻ thiện nam, người thiện
nữ, nhưng sâu hơn một tầng, là nói đến Bồ-tát a-tỳ-bạt-trí (không còn thoái
chuyển), rõ ràng có Bồ-tát xuất gia. Kinh nói về tướng a-tỳ-bạt-trí, đa số có
thể thông với cả tại gia và xuất gia, nhưng nói đến “Bồ-tát (không còn thoái
chuyển) tại gia” có tâm tư chán ghét dâm dục rất sâu sắc;95 đây là có khuynh hướng về xuất gia, giống
với kinh Pháp kính, phẩm Tịnh hành.
Ác ma nói Bồ-tát “có công đức đầu-đà.”96
Ác ma “thấy Bồ-tát có sự thực hành viễn ly” nên tán thán vị ấy, đối với “vị Bồ-tát
này từ nơi viễn ly đi đến chỗ tụ lạc, thấy các tỳ-kheo khác cầu Phật đạo, tâm
tánh nhu hòa, bèn sanh lòng khinh mạn:(d)”97 đây là minh chứng người cầu Bồ-tát đạo,
có tỳ-kheo sống nơi a-lan-nhã và tỳ-kheo sống (gần) tụ lạc. Khi luận về Bồ-tát
a-tỳ-bạt-trí, đã phân biệt Bồ-tát tại gia không còn thoái chuyển là những người
chán ghét tình dục (tương đồng với trưởng giả Uất-già), và nói rõ ràng đến tỳ-kheo
Bồ-tát sống nơi a-lan-nhã và sống nơi tụ lạc, đã cho thấy Bồ-tát tinh cần tu
trì, là xem hàng xuất gia trọng hơn. Lấy việc thọ trì, đọc, tụng, giải thích,
biên chép làm phương tiện nhiếp hóa người thiện nam, kẻ thiện nữ, những điều được
pháp môn Bát-nhã khởi xướng, đa số được pháp môn Đại thừa sử dụng. Như kinh A-súc Phật quốc thì trọng về Bồ-tát xuất
gia. Sau cùng nói: “nếu có kẻ thiện nam, người thiện nữ nào phúng tụng đức hiệu
và kinh pháp của Phật A-súc, nghe rồi liền ghi nhớ phúng tụng, nguyện sanh cõi
của Phật A-súc;” và nói đến nơi để học hỏi, biên chép. “Có người nào thọ trì đức
hiệu và kinh pháp này, hoặc sẽ ghi nhớ phúng tụng, lại xuất gia học đạo thì lìa
được tội.”98 Từ tại gia thọ trì,
phúng tụng đến xuất gia tu đạo là quá trình tu học. Lại nữa, kinh A-xà-thế vương nói: “Nếu kẻ nam, người nữ,…
có phúng tụng, đọc phẩm A-xà-thế của kinh ấy, hoặc cung (kính), hoặc (vâng) làm
theo, hoặc phúng tụng, thuyết cho mọi (người).”99
Kinh Độn-chân-đà-la sở vấn Như lai tam-muội
nói: “Không bằng kẻ nam, người nữ phụng hành các việc làm của Bồ-tát, rồi một
ngày đêm 3 lần phúng tụng, đọc, nếu nói cho người khác các việc làm trong pháp ấy
thì đức cao hơn người kia.”100 Kinh
Duy-ma-cật nói: “Kẻ hiền nam, hiền nữ
thọ trì pháp tinh yếu của môn không thể nghĩ lường được tuyên thuyết này, hay
thọ trì, thuyết [cho người khác] thì được phước nhiều hơn người kia.” “Nếu kẻ
nam hiền nhân (nữ hiền nhân) nào ghi nhớ được các kinh này thì nên khiến họ có
được các kinh này, dùng niệm lực hộ trì cho họ, hoặc khiến họ ghi nhớ, thọ trì
các kinh như thế, chỉ bảo lại cho bạn bè, giải thích rộng rãi, rõ ràng.”101 Kinh Thủ-lăng-nghiêm tam-muội nói: “Nếu có kẻ thiện nam, người thiện nữ
nào cầu Phật đạo,… nghe được tam-muội thủ-lăng-nghiêm này thì liền có thể tin
tưởng, thọ trì, tâm không còn thoái lui, không kinh, không sợ, phước vượt hơn
người kia… Huống gì nghe rồi thọ trì, đọc, tụng, tu hành đúng như lời kinh nói,
giải thích cho người khác.”102 Một
vài bộ kinh được truyền dịch vào thời kỳ sớm nhất, đối với việc phát tâm, nghe,
thọ trì, đọc, tụng, v.v., đều đã đề cập đến kẻ thiện nam, người thiện nữ.
Phương thức nhiếp hóa tín chúng theo thông tục này dường như lưu truyền mãi về
sau. Việc tụng kinh của Phật giáo Trung Quốc hiện đại – tụng cho tín chúng, dạy
cho tín chúng tự tụng, cũng vẫn là diễn tiến của phương pháp này mà có vậy!
1 Tương
ưng bộ, Chất-đa tương ưng, Nam truyền 15, tr. 427-462.
2 Cao
tăng Pháp Hiển truyện, T. 51, tr. 862b.
3 Xuất
Tam tạng ký tập 15, T. 55, tr. 113c.
4 Đại
Từ Ân tự Tam tạng Pháp sư truyện 2, T. 50, tr. 232a; và, q. 4, tr. 244a.
5 A-di-đà
tam-da-tam Phật tát-lâu Phật đàn quá độ nhân đạo kinh, q. thượng, T. 12,
tr. 300c; và, q. hạ, tr. 309c-311a.
6 A-súc
Phật quốc kinh, q. thượng, T. 11, tr. 751c-752b.
7 A-súc
Phật quốc kinh, q. hạ, T. 11, tr. 758a-b. Đại Bảo tích kinh 20, Bất Động Như lai hội, T. 11, tr. 107b.
8 Tiểu
phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8, tr. 538a-b.
9 Ma-ha
Bát-nhã ba-la-mật kinh 6, T. 8, tr. 257a.
10 Đại
phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh 14, T. 10, tr. 70a-72a.
11 Đại
phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh 36, T. 10, tr. 190b, 192b.
12 Đại
phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh 34, T. 10, tr. 183c; và, q. 35, tr. 186c.
13 Đại
phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh 35, T. 10, tr. 188c-189a.
14 Đại
phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh 34, T. 10, tr. 184c.
15 Đại
Bảo tích kinh 13, Mật Tích Kim Cang lực sĩ hội, T. 11, tr. 71c-73a.
16 Đại
Bảo tích kinh 14, Mật Tích Kim Cang lực sĩ hội, T. 11, tr. 79b-c.
17 Văn-thù-sư-lợi
Phật độ nghiêm tịnh kinh, q. thượng, T. 11, tr. 893b-c. Đại Bảo tích kinh 59, Văn-thù-sư-lợi thọ
ký hội, T. 11, tr. 341b-c.
18 Đại
Bảo tích kinh 77, Phú-lâu-na hội, T. 11, tr. 434c; và, q. 78, tr. 445a-b.
19 Đại
Bảo tích kinh 77, Phú-lâu-na hội, T. 11, tr. 437c-439b.
20 Đại
Bảo tích kinh 78, Phú-lâu-na hội, T. 11, tr. 445c-448a.
21 Pháp
kính kinh, T. 12, tr. 17b. Uất-già-la-việt vấn Bồ-tát hành kinh, T. 12, tr.
25a-b. Đại Bảo tích kinh 82, Uất-già
trưởng giả hội, T. 11, tr. 474a-b.
22 Pháp
kính kinh, T. 12, tr. 22a-b.
23 Huyễn
sĩ Nhân Hiền kinh, T. 12, tr. 37a.
24 Tu-lại
kinh, T. 12, tr. 56c. Bản dịch khác: Tu-lại
kinh, T. 12, tr. 63b.
25 Tu-ma-đề
Bồ-tát kinh, T. 12, tr. 78a.
26 A-xà-thế
vương nữ A-thuật-đạt Bồ-tát kinh, T. 12, tr. 89b.
27 Di-viết
ma-ni bảo kinh, T. 12, tr. 194a.
28 Hiền
kiếp tam-muội kinh 1, T. 14, tr. 7b-c.
29 Hiền
kiếp tam-muội kinh 8, T. 14, tr. 63c-64a.
30 Hiền
kiếp tam-muội kinh 1, T. 14, tr. 7b, 10b.
31 Đại Bảo tích kinh 118, Bảo Kế Bồ-tát hội,
T. 11, tr. 670b-671a.
32 Bảo
võng kinh, T. 14, tr. 82b.
33 Văn-thù-sư-lợi
hiện bảo tạng kinh, q. hạ, T. 14, tr. 464a-b.
34 Trì
thế kinh 2, T. 14, tr. 651c.
35 Trì
thế kinh 4, T. 14, tr. 663c.
36 Trì
thế kinh 4, T. 14, tr. 664c.
37 Phạm-chí
nữ Thủ Ý kinh, T. 14, tr. 940b.
38 Tâm
minh kinh, T. 14, tr. 942c-943a.
39 Ma
nghịch kinh, T. 15, tr. 113c-114a.
40 Ma
nghịch kinh, T. 15, tr. 116b.
41 Hải
long vương kinh 1, T. 15, tr. 132c.
42 Hải
long vương kinh 2, T. 15, tr. 140c-141a.
43 Huệ
ấn tam-muội kinh, T. 15, tr. 463c-464b. Đại
thừa trí ấn kinh 3, T. 15, tr. 481a-482a. Như lai trí ấn kinh, T. 15, tr. 471a-b.
44 Chư
pháp vô hành kinh, q. thượng, T. 15, tr. 752c-753a.
45 Chư
pháp vô hành kinh, q. hạ, T. 15, tr. 759a-b.
46 Hoa
thủ kinh 2, T. 16, tr. 135b-c.
47 Hoa
thủ kinh 3, T. 16, tr. 140b-141a.
48 Hoa
thủ kinh 6, T. 16, tr. 170a-171b.
49 Hoa
thủ kinh 6, T. 16, tr. 174a-175a.
50 Hoa
thủ kinh 7, T. 16, tr. 176b-180b.
51 Hoa
thủ kinh 8, T. 16, tr. 187b-c.
52 Hoa
thủ kinh 9, T. 16, tr. 194c-196a.
53 Hoa
thủ kinh 9, T. 16, tr. 197a-198b.
54 Hoa
thủ kinh 7, T. 16, tr. 181c, 183a-b, 184c-186b; và, q. 9, tr. 199a-200a.
55 Phật
thăng Đao-lợi thiên vị mẫu thuyết pháp kinh, q. trung, T. 17, tr. 794c.
56 Đại
thọ Khẩn-na-la vương sở vấn kinh 2, T. 15, tr. 373a.
57 Đại
thọ Khẩn-na-la vương sở vấn kinh 2, T. 15, tr. 376b-c.
58 Đại
thọ Khẩn-na-la vương sở vấn kinh 4, T. 15, tr. 385c.
59 Đại
thọ Khẩn-na-la vương sở vấn kinh 3, T. 15, tr. 383b-c.
60 Duy-ma-cật
sở thuyết kinh, q. hạ, T. 14, tr. 556c-557a.
61 Ban-chu
tam-muội kinh, q. trung, T. 13, tr. 913c.
62 Ban-chu
tam-muội kinh, q. hạ, T. 13, tr. 918a.
63 Ban-chu
tam-muội kinh, q. hạ, T. 13, tr. 918c.
64 A-xà-thế
vương kinh, q. thượng, T. 15, tr. 394a-b.
65 Phật
mẫu xuất sanh tam pháp tạng bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 16, T. 8, tr. 642c.
66 Đại
Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 549 (phần 4), T. 7, tr. 827c; và, q. 562 (phần
5), tr. 902a.
67 Pháp
kính kinh, T. 12, tr. 22b. Uất-ca-la-việt
vấn Bồ-tát hành kinh, T. 12, tr. 30b-c. Đại
Bảo tích kinh 82, Uất-già trưởng giả hội, T. 11, tr. 479c-480a.
68 Trung
A-hàm kinh 12, Tỳ-bà-lăng-kỳ kinh, T. 1, tr. 499b-500a.
69 Xuất
Tam tạng ký tập 2, T. 55, tr. 6c.
70 Tu-lại
kinh, T. 12, tr. 52b-56c. Đại Bảo
tích kinh 95, Thiện Thuận Bồ-tát hội, thiếu đoạn nói việc Tu-lại xuất gia,
không khớp với bản dịch xưa.
71 Trưởng
giả tử Chế kinh, T. 14, tr. 800c-801c. Tu-ma-đề
trưởng giả kinh, T. 14, tr. 805b-808a. Tu-ha-muội
kinh, T. 14, tr. 809c trở đi. Bồ-tát
sanh địa kinh, T. 14, tr. 814a-c.
72 Phạm-chí
nữ Thủ Ý kinh, T. 14, tr. 939b trở đi. Huyễn
sĩ Nhân Hiền kinh, T. 12, tr. 31a trở đi. A-xà-thế vương nữ A-thuật-đạt Bồ-tát kinh, T. 12, tr. 83c-89b. Long Thí nữ kinh, T. 14, tr. 909c-910a. Tu-ma-đề Bồ-tát kinh, T. 12, tr.
76b-78c.
73 Đại
tịnh pháp môn kinh, T. 17, tr. 817a trở đi.
74 Tu
quyền phương tiện kinh, q. hạ, T. 14, tr. 930a.
75 Duy-ma-cật
sở thuyết kinh, q. hạ, T. 14, tr. 555b.
76 Ly
Cấu Thí nữ kinh, T. 12, tr. 89b trở đi.
77 Vô
Cấu Hiền nữ kinh, T. 14, tr. 913b-914b.
78 Ban-chu
tam-muội kinh, q. trung, T. 13, tr. 912b.
79 Ban-chu
tam-muội kinh, q. hạ, T. 13, tr. 911a. Đại
phương đẳng Đại tập kinh Hiền Hộ phần,
q. 3, T. 13, tr. 884b-c.
80 Hiền
kiếp tam-muội kinh 1, T. 14, tr. 1b. A-xà-thế
vương nữ A-thuật-đạt Bồ-tát kinh, T. 12, tr. 84a. Bát cát tường thần chú kinh, T. 14, tr. 73a.
81 Bát
cát tường thần chú kinh, T. 14, tr. 73a.
82 Trì
Tâm Phạm thiên sở vấn kinh 1, T. 15, tr. 1a.
83 Ban-chu
tam-muội kinh, q. thượng, T. 13, tr. 903a.
84 Ma-ha
bát-nhã ba-la-mật kinh 27, T. 8, tr. 416a-421b
85 Phóng
quang bát-nhã ba-la-mật kinh 9, T. 8, tr. 67b.
86 Trong Diệu pháp liên hoa kinh có văn cú tương tợ rất nhiều, ở trên là dẫn
từ q. 4, T. 9, tr. 30c.
(a) Skt: “sarvadharmāparigṛhīto nāma
samādhi.” ASP, p. 5.
87 Tiểu
phẩm bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8, tr. 537c-538b.
88 A-súc
Phật quốc kinh, q. thượng, T. 11, tr. 752b; và, q. hạ, tr. 761b.
89 A-di-đà
tam-da-tam Phật tát-lâu Phật đàn quá độ nhân đạo kinh, q. hạ, T. 12, tr.
309c.
90 A-xà-thế
vương kinh, q. thượng, T. 15, tr. 394a. Văn-thù-chi-lợi
phổ triệu tam-muội kinh, q. thượng, T. 15, tr. 412b.
91 Di-lan
vương vấn kinh, Nam truyền 59 hạ, tr. 203.
92 Tứ
phần luật 35, T. 22, tr. 817a.
(b) Tham
khảo: “atha khalu tatra parṣadi keṣāṃciddevaputrāṇāmetad-abhūt
- yāni tāni yakṣāṇāṃ yakṣabhāṣitāni yakṣarutāni yakṣapadāni yakṣamantritāni yakṣapravyāhṛtāni,
tāni vijñāyante jalpyamānāni / na punaridaṃ vijñāyate yatsubhūtiḥ sthaviro bhāṣate
pravyāharati deśayatyupadiśati / atha khalvāyuṣmān subhūtirbuddhānubhāvena teṣāṃ
devaputrāṇāmimamevaṃrūpaṃ cetasaiva cetaḥparivitarkam-ājñāya tān
devaputrānāmantrayate sma - na vijñāyate na vijñāyate idaṃ devaputrāḥ / tathā
hi nātra kiṃcitsūcyate, nātra kiṃcit śrūyate //” ASP, p. 19.
(c)Tham khảo: “dūrāddūrataramāryasubhūtiḥ
praviśati, sūkṣmāt-sūkṣmataram / gambhīrādgambhīrataramāryasubhūtiḥ praviśati
deśayati bhāṣata iti.”
ASP, p. 19.
93 Tiểu phẩm bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8,
tr. 540b, c.
94 Dùng âm
thanh chuyển đọc (cũng có thể tự mình chuyển đọc), xướng đạo để làm Phật sự, ở
Trung Quốc giữa thời từ nhà Tấn đến Tống cũng có tiến hành vào 6 ngày trai. Như
Cao Tăng truyện 13, T. 50, tr. 414a,
417c nói: “Hoặc đúng ngày thọ 8 quan [trai giới] trong một ngày đêm, sau lúc nửa
đêm thì 4 chúng còn đang say giấc, con rắn ngủ còn đang kéo tới. (Trí) Tông bèn
lên tòa tụng một lần, tiếng vang của Phạm âm cao vút tầng mây.” “Đạo nghiệp của
Huệ Viễn thanh khiết huy hoàng, đạo phong và tài năng phát huy rực rỡ! Mỗi khi
đến ngày trai tập hợp [làm lễ], Ngài vẫn đích thân lên tòa cao, cúi mình làm
người đứng đầu (xướng) đạo.
95 Tiểu phẩm bát-nhã ba-la-mật kinh 6, T. 8,
tr. 565a. Đạo hành bát-nhã ba-la-mật kinh
6, T. 8, tr. 455b.
96 Tiểu phẩm bát-nhã ba-la-mật kinh 7, T. 8,
tr. 570b.
(d) Tham
khảo: “sa tato vivekātpunareva araṇyādgrāmāntamavatīrya
tadanyān bodhisattvān mahāsattvān peśalān bhikṣūn sabrahma-cāriṇaḥ kalyāṇadharmaṇo
'saṃkīrṇān śrāvakapratyekabuddha-pratisaṃyuktairmanasikāraiḥ pariśuddhakāyavāṅmanaḥkarmāntān
jīvānavamaṃsyate /.” ASP, p. 195.
97 Tiểu phẩm bát-nhã ba-la-mật kinh 7, T. 8,
tr. 570c-571a.
98 A-súc Phật quốc kinh, q. hạ, T. 11, tr. 763a-763c.
99 A-xà-thế vương kinh, q. hạ, T. 15, tr. 405b.
Văn-thù-chi-lợi phổ triệu tam-muội kinh,
q. hạ, T. 15, tr. 427a.
100 Độn-chân-đà-la sở vấn Như lai tam-muội kinh, q. hạ,
T. 15, tr. 366b. Đại thọ Khẩn-na-la vương
sở vấn kinh 4, T. 15, tr. 387c-388a.
101 Duy-ma-cật kinh, q. hạ,
T. 14, tr. 535c, 536c. Duy-ma-cật sở thuyết
kinh, q. hạ, T. 14, tr. 556a, 557b.
102 Thủ-lăng-nghiêm tam-muội kinh, q. hạ, T.
15, tr. 645b.