SỰ KHỞI NGUYÊN VÀ KHAI
TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA SƠ KỲ
Nguyên tác:
Pháp sư Ấn Thuận
Chuyển ngữ: Tỳ-kheo
Thích Nhuận Thịnh
CHƯƠNG 1. DẪN NHẬP
Tiết 1. Vấn đề phát sanh từ
Đại thừa
Mục 1. Thuyết cho rằng Đại
thừa chẳng phải do Phật thuyết
Vào khoảng trước và sau
Công nguyên, những hành giả Bồ-tát có “phát tâm bồ-đề, tu hạnh Bồ-tát, cầu
thành bồ-đề vô thượng” đã xuất hiện trong giới Phật giáo Ấn-độ; những kinh điển
tuyên thuyết về “sự trang nghiêm của quả vị Phật, hạnh to lớn của Bồ-tát” cũng
bắt đầu lưu hành. Sự thật này, giới Phật giáo truyền thống có “phát cái tâm cầu
thoát khỏi, làm những việc ích lợi cho sự tu của riêng mình, mong cầu thành tựu
quả vị A-la-hán,” thì sẽ dẫn đến khởi lên không ít phản ứng, có người không tránh
khỏi biểu hiện thái độ phản đối. Các kinh Đạo hành bát-nhã, kinh Ban-chu
tam-muội, v.v., lưu hành vào sơ kỳ, đều đã phơi bày tình hình đương thời,
như nói:
“Sau khi nghe tam-muội
này, không vui, không tin… Rồi bảo với nhau rằng: những lời này là nói cái gì?
Là từ đâu được mà nói những lời này? Đó là tự hội họp với nhau rồi nói như vậy,
là kinh chẳng phải do Phật thuyết.”2
Bộ phận những người theo
Phật giáo truyền thống chỉ trích những kinh điển thuộc Bồ-tát hành này là ‘chẳng
phải do Phật thuyết’. Những kinh điển này được gọi là Phương đẳng (Vaipulya) hoặc
Đại phương quảng (hoặc dịch là ‘Đại phương đẳng’ - Mahāvaipulya), những hành giả
Bồ-tát cũng tự xưng là ‘Đại thừa’ (Mahāyāna). Có lẽ do chỉ trích ‘Đại thừa chẳng
phải do Phật thuyết’ của những người theo Phật giáo truyền thống, nên hành giả Bồ-tát
cũng phản kháng, chỉ trích những người theo Phật giáo truyền thống là Tiểu thừa
(Hīnayāna). Tình hình chỉ trích lẫn nhau này kéo dài mãi về sau. Bộ phái Phật
giáo theo truyền thống thì có ưu thế về truyền thống và tổ chức tự viện, nhưng
trên mặt lý luận, trên mặt tu trì thì dường như thiếu đi lực lượng chân chánh để
phản đối Phật pháp Đại thừa, nên cuối cùng Đại thừa vẫn lưu hành tại Ấn độ.
Sự truyền vào Trung Quốc
của Phật giáo, mở đầu là việc dịch kinh, đã vào giữa thế kỷ thứ 2 A.D., đó
chính là thời đại ‘Đại-Tiểu cùng phát triển’ của Phật giáo Ấn độ. Đại thừa và
Tiểu thừa cùng thời truyền vào Trung Quốc; tại Ấn độ, nhân vì Phật pháp Đại thừa
lưu hành nên dẫn đến việc tranh luận phát sanh, cũng đã truyền đến Trung Quốc.
Như Tiểu thừa mê học Trúc Pháp độ tạo dị nghi ký trong quyển 5 của Xuất
Tam tạng ký tập (T. 55, tr. 40c-41a) nói:
“Vào niên hiệu Nguyên Gia
[424-453 A.D., đời Lưu Tống], thương nhân người nước ngoài tên là Trúc Bà-lặc,
đã dừng chân tại Quảng Châu lâu dài, thường qua lại để cầu lợi [buôn bán]. Người
ấy sanh con ở quận Nam Khang, [khi đứa con còn nhỏ] vẫn gọi tên là Nam Khang, đến
lúc trưởng thành thì đổi thành Kim Già. Sau đó [người con] nhập đạo, trở thành
đệ tử của Đàm-ma-da-xá, đổi tên thành Pháp Độ. Người [con] ấy tuy có dung mạo người
nước ngoài, nhưng thật tế là sanh tại đất Hán. [Do đó] lễ nghi của Thiên Trúc,
người này không có am tường chút gì. Nhưng vì tánh vẫn giữ thói kiêu ngạo, muốn
thâu tóm vật [cúng dường?] nên chấp chặt cái học Tiểu thừa, nói rằng không có
10 phương Phật, duy chỉ lễ Phật Thích-ca mà thôi. Những kinh điển Đại thừa, vị
này không cho phép đọc tụng.”
Trúc Pháp Độ không cho
phép đọc tụng kinh Đại thừa, nói không có 10 phương Phật, Tăng Hựu cho rằng vị ấy
‘tánh vẫn giữ thói kiêu ngạo, ‘thể hiện những thuật dối trá’, là sai lầm. Chủ
trương và thực hành các lễ nghi của Trúc Pháp Độ, kỳ thật là do chịu ảnh hưởng
của Phật giáo Tích-lan (Siṃhala). Vào trước lúc La-thập (Kumārajīva) đến Trung
Hoa, Tăng-già-đề-bà (Saṃghadeva) đã truyền bá ‘Tỳ-đàm’ ở Giang Đông, cũng từng
phản đối Đại thừa, như Thư của Phạm Bá Luân gửi hai Pháp sư Sanh và Quán trong
quyển 12 của Hoằng minh tập (T. 52, tr. 78b) nói:
“Khi Đề-bà mới đến, đồ đệ
của (Huệ) Nghĩa, (Huệ) Quán… Cho rằng những kinh thuộc Phương đẳng [nói về lý]
vô sanh, đều là những sách do ma nói. Đề-bà rốt cục khi thuyết kinh vẫn không
lên tòa cao.”(b)
Sự truyền vào Trung Quốc
của Phật giáo là Đại-Tiểu đồng thời, cho nên bộ phái Phật giáo thuộc truyền thống
không thể tạo thành truyền thống kiên cố và mạnh mẽ tại Trung Quốc. Thêm nữa,
Tiểu thừa với dân tình Trung Quốc có lẽ không quá thích hợp, nên Đại thừa luôn
luôn ở trong tình thế có lợi để phát triển. Vào thời Nam Bắc triều, tuy có sự
chuyên truyền bá Tỳ-đàm và Thành thật, nhưng trong giới Phật giáo, chưa từng
nghe lời tiếng nào phản đối Đại thừa. Phật giáo từ Trung Quốc lại truyền đến Việt
Nam [?], Triều Tiên, Nhật Bản, lại là thời đại chuyên truyền bá Phật pháp Đại thừa, cũng
không có sự tranh luận về vấn đề ‘Đại thừa chẳng phải do Phật thuyết’. Học giả
Tominaga Nakamoto (富永仲基, 1715-1746) thuộc
thời đại Tokugawa (德川) ở Nhật Bản, viết
Xuất định hậu ngữ, đề xướng rằng ‘Đại thừa chẳng phải do Phật thuyết’.
Đó là sự nghiên cứu của học vấn, so với vấn đề ‘Đại thừa chẳng phải do Phật
thuyết’ của Phật giáo truyền thống cổ đại, ý nghĩa đều chẳng tương đồng.
Mục 2. Quan điểm của hành
giả Đại thừa
Tranh luận về ‘Đại thừa
chẳng phải do Phật thuyết’, vấn đề chủ yếu là kinh điển Đại thừa từ đâu mà có? Nếu
như lai lịch của kinh Đại thừa không rõ ràng, thì không thể chứng minh là do Phật
thuyết, nên nó bị xem như là chẳng phải Phật pháp. Những Thánh điển của Phật
giáo truyền thống là Tam tạng. Tạng Kinh là ‘5 bộ’ – 4 bộ A-hàm và Tạp
tạng; tạng Luật là Kinh phân biệt và Kiền-độ, v.v… Như vậy, tuy những kinh
do các phái truyền bá, về tổ chức và nội dung đều có thêm bớt, nhưng cùng cho rằng:
đây là những kinh do Phật Thích-ca Mâu-ni thuyết; trải qua cuộc kết tập gồm 500
vị tại thành Vương xá (Rājagṛha), cuộc kết tập gồm 700 vị tại thành Tỳ-xá-li
(Vaiśālī) mà có. Kết tập (saṃgīti) là mỗi người tụng [đẳng tụng], cùng nhau tụng
[hợp tụng), là do đa số các vị Thánh giả tụng, trải qua sự cùng thẩm định, biên
tập thành thứ tự, rồi lần lượt truyền tụng về sau. Trong truyền thuyết về cuộc
kết tập tảo kỳ không có nghe nói qua ‘kinh Đại thừa’, bây giờ bỗng nhiên nó được
lưu truyền rộng rãi ra, đây là điều không thể không nghi ngờ. Những kinh điển
này rốt cục là được kết tập ở đâu? Do ai truyền thừa mà ra? Vấn đề này, có thể
nói là xuất phát từ sự tìm hiểu sự thật lịch sử. Phật pháp là thứ vĩnh hằng, ‘đạo
của Phật với Phật là giống nhau’, nhưng Phật pháp mà được lưu truyền ở thế gian
là do sự thành Phật, thuyết pháp, lãnh đạo Tăng của đức Thích tôn rồi lưu truyền
ra, đây là một sự thật lịch sử. Sự truyền tụng của Đại thừa tại nhân gian cũng
không thể không đắn đo đến một sự thật lịch sử này! Nếu không chỉ ra được người
kết tập, người truyền thừa, thì sẽ không tránh khỏi phải chịu sự hiềm nghi ‘Đại
thừa chẳng phải do Phật thuyết’.
Hành giả Đại thừa đương
nhiên không thể đồng ý ‘Đại thừa chẳng phải do Phật thuyết’. Đại khái, người
xưa từ trên mặt lý luận, luận chứng rằng chẳng có Đại thừa – pháp môn thành Phật
thì không thể được. Hoặc từ lập trường tín ngưỡng về sự siêu việt khỏi thường
tình – ‘Phật là bậc không thể suy lường được’, nói rằng pháp Đại thừa có ô lượng
vô số, phần lớn khó thể hình dung được, cho nên không nằm bên trong của ‘Tam tạng’
được kết tập ấy. Nhưng có người cũng chú ý đến tánh lịch sử truyền tụng ở nhân
gian, đã nói đến sự kết tập và truyền thừa, như quyển 100 trong luận Đại trí
độ (T. 25, tr. 756b) của Long thọ (Nāgārjuna) nói:
“Có người nói: … Sau khi
Phật diệt độ, các vị đại Bồ-tát như Văn-thù thi-lợi, Di-lặc, v.v., cũng cùng với
ngài A-nan kết tập thành Ma-ha-diễn.”
‘Ma-ha-diễn’ – Đại thừa,
chủ yếu là Khế kinh. Trong truyền thống Phật giáo, ‘Kinh’ là do A-nan (Ānanda) kết
tập thành, cho nên những người thuộc Đại thừa cho rằng: cái do Đại Ca-diếp (Mahākāśyapa)
và A-nan kết tập ra, đó là Kinh trong ‘Tam tạng’; kinh Đại thừa cũng là do
A-nan kết tập thành, nhưng là cùng với Văn-thù (Mañjuśrī), v.v., đồng kết tập
thành. Như vậy, kinh Đại thừa không nằm bên trong ‘Tam tạng’, mà sự biên tập
thành của ‘Đại thừa tạng’ và ‘Tam tạng’, có thể nói là tồn tại đồng thời. Đại
thừa trang nghiêm kinh luận đã đề xuất ra 8 lý do để thành lập Đại thừa, lý
do thứ 2 là: “Đồng hành, ấy là Thanh văn thừa và Đại thừa đều chẳng phải có trước,
chẳng phải có sau, đồng hành cùng một lúc, thì ông làm sao biết được chỉ riêng
Đại thừa này chẳng phải do Phật thuyết?”1(a) Đây là chủ trương pháp Thanh văn thừa
và pháp Đại thừa là đồng thời được biên tập ra và lư hành. Nhưng ở trên góc độ
lịch sử, thì điều này không thể được mọi người chấp nhận. Nói cụ thể hơn, như
quyển 1 của luận Kim cang tiên do Bồ-đề-lưu-chi (Bodhiruci) dịch ra vào
đời Nguyên Ngụy (T. 25, tr. 800c-801a) nói:
“Có 3 vị A-nan, thuộc Đại
thừa, Tiểu thừa và Trung thừa, truyền bá và duy trì tạng Pháp của 3 thừa.”
“Đức Như lai ở bên ngoài
núi Thiết vi, không đến thế giới khác, giữa 2 thế giới có vô lượng chư Phật
cùng tập hợp ở đó, sau khi thuyết những lời về Phật xong, muốn kết tập thành tạng
Pháp của Đại thừa nên lại triệu tập đồ chúng, La-hán có 80 ức na-do-tha vị,
chúng Bồ-tát có vô lượng vô biên nhiều như số cát sông Hằng không thể suy lường
được, đều tập trung ở đó.”
Thuyết kết tập do luận Kim
cang tiên truyền, là gần với thuyết do Long thọ truyền, nhưng lại có chỉ ra
địa điểm kết tập. Có 3 vị A-nan, mỗi vị đã truyền bá và duy trì tạng Pháp của 3
thừa khác nhau – Đại thừa, Trung thừa (Duyên giác thừa), Tiểu thừa (Thanh văn
thừa). Từ góc độ Đại thừa để nói, thì A-nan là do Bồ-tát thị hiện; thuyết nói
có 3 vị A-nan, đương nhiên là nói rất có lý. Nhưng từ những người theo Phật
giáo truyền thống để nhìn nhận, thì truyền bá và duy trì tạng Pháp của 3 thừa
khác nhau, mà người truyền bá và duy trì ấy thật trùng hợp đều tên là A-nan,
nên không tránh khỏi quá khéo trùng hợp! Vả lại, địa điểm kết tập không phải ở
nhân gian, mà ở giữa 2 thế giới, cũng cảm thấy khó tin được.
Thuyết 3 vị A-nan biên tập
ra, truyền bá và duy trì khác nhau ấy, giới Phật giáo Trung Quốc đã tiến hành
trích dẫn rất phổ biến, như Pháp hoa kinh văn cú của Trí Khải, nói: “Kinh
Chánh pháp niệm nói rõ ràng có 3 vị A-nan, gồm: A-nan-đà, ở đây [Trung
Quốc] gọi là Hoan Hỉ, trì Tiểu thừa tạng. A-nan-bạt-đà, ở đây gọi là Hoan Hỉ Hiền,
thọ trì Tạp tạng. A-nan-bà-già, ở đây gọi là Hoan Hỉ Hải, trì Phật tạng. Kinh A-hàm
có vị Điển tạng A-nan, trì Bồ-tát tạng.”2
Hoa nghiêm kinh thám huyền ký của ngài Hiền Thủ, Hoa nghiêm huyền đàm
của ngài Trừng Quán, đều có dẫn chứng đại khái gần giống như vậy.3 Điều mà Pháp hoa kinh văn cú đã
dẫn chứng, là kinh Chánh pháp niệm; điều được Thám huyền ký trích
dẫn, là kinh A-xà-thế vương sám hối; và, Hoa nghiêm huyền đàm thì
trích dẫn kinh Pháp tập. Những bộ kinh này, trong những kinh điển dịch
sang tiếng Hán, đều không có văn làm chứng cứ rõ ràng nói có 3 vị A-nan. Có thể
là căn cứ vào truyền thuyết của người dịch luận Kim cang tiên và kinh Chánh
pháp niệm xứ (nhưng không có dịch ra toàn bộ) – Bát-nhã-lưu-chi
(Prajñāruci). Nhưng tóm lại, từ trên góc độ lịch sử, thì vấn đề kinh Đại thừa
được kết tập ở đâu, do ai truyền và duy trì được nêu lên, người xưa tuy đã có
trình bày, nhưng lại không thể có lời phúc đáp làm thỏa ý.
Kinh Đại thừa từ trong Phật
giáo bộ phái lưu truyền ra, đây là một truyền thuyết khác của người xưa. Truyền
thuyết này đã nhận được sự xem trọng của các học giả Đại thừa. Tam luận huyền
nghĩa của Các Tạng viết vào đời Tùy (T. 45, tr. 8c-9c) nói:
“Đến khoảng trong 200 năm
[sau Phật nhập niết-bàn], từ Đại chúng bộ lại tách ra 3 bộ. Bấy giờ Đại chúng bộ
nhân vì Ma-ha-đề-bà [Mahādeva] chuyển sang sống ở nước Ương-quật-đa-la
[Avguttarāpa], nước này ở phía bắc thành Vương-xá. Bộ này đem các kinh Đại thừa
như Hoa nghiêm, Bát-nhã, v.v., Tạp tạng trong Tam tạng giảng
thuyết có những người ở nước ấy. Người bấy giờ có kẻ tin, có kẻ chẳng tin nên
chia thành 2 bộ.”
“Đến trong khoảng 200 năm
[sau Phật nhập niết-bàn], từ Đại chúng bộ lại chia ra 1 bộ nữa, gọi là Đa văn bộ…
Người ấy tụng đầy đủ nghĩa cạn và sâu, trong nghĩa sâu có nghĩa của Đại thừa.”
“Trong khoảng 300 năm
[sau Phật nhập niết-bàn], từ Chánh địa bộ lại chia ra 1 bộ nữa, gọi là Pháp hộ
bộ… Tự soạn thành 5 tạng: 3 tạng, như thường biết; 4, Chú tạng; 5, Bồ-tát tạng.
Có những kẻ tin điều mà họ nói, nên chia riêng thành một bộ.”
Căn cứ theo Tam luận
huyền nghĩa kiểm u tập, chúng ta biết được điều mà Tam luận huyền nghĩa
nói, là dựa vào thuyết do Tam tạng Chân Đế (Paramārtha) truyền.4 Chân Đế dịch ra Bộ chấp dị luận,
và có truyền Bộ chấp dị luận sớ, nói đến sự phân liệt của bộ phái và
tông nghĩa của bộ phái. Điều mà Tam luận huyền nghĩa nói, chính là dựa
vào Bộ chấp dị luận sớ. Căn cứ vào thuyết này, thì bộ phái mà tách ra từ
Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) và Pháp hộ bộ - Pháp tạng bộ (Dharmaguptaka) tách
ra từ Thượng tọa bộ (Sthavira), đều có truyền bộ phận kinh Đại thừa, đây là
truyền thuyết do Chân Đế (đến Trung Hoa năm 546 A.D.) mang đến.
Đại Đường Tây vực ký của Huyền Trang cũng có truyền thuyết tương tự, như quyển
9 (T. 51, tr. 923a) nói:
“Từ chỗ ngài A-nan chứng
quả, đi về hướng Tây hơn 20 dặm, có tốt-đổ-ba [stūpa – cái tháp] do vua Vô Ưu
[Aśoka] xây dựng, là nơi Đại chúng bộ kết tập. Những người thuộc học và vô học
có số lượng trăm nghìn người, không tham dự vào chúng kết tập của Đại Ca-diếp
mà đến nơi này… Lại kết tập Tố-đát-lãm tạng, Tỳ-nại-da tạng, A-tỳ-đạt-ma tạng,
Tạp tập tạng, Cấm chú tạng: riêng biệt thành 5 tạng. Bởi cuộc kết tập này có
phàm và Thành đồng tụ hội, nhân đó gọi là Đại chúng bộ.”
Theo cuộc kết tập bên
ngoài do Huyền Trang truyền, thì đương thời có kết tập 5 tạng. Truyền thuyết
này rõ ràng có liên quan với kinh Tăng nhất A-hàm. Vào khoảng năm
384-385 A.D., Đàm-ma-nan-đề (Dharmanandi) dịch ra phẩm Tự của kinh Tăng nhất
A-hàm (T. 2, tr. 550a-c), nói:
“Bồ-tát phát ý hướng đến
Đại thừa; Như lai thuyết cho họ những pháp riêng; bậc tôn quý của loài người
thuyết sáu độ vô cực. … Chư pháp sâu xa, luận về lý ‘không’; khó hiểu, khó rõ,
không thể quán; kẻ hậu tấn tương lai ôm hồ nghi; đức của Bồ-tát này không nên bỏ.
… Nghĩa của Phương đẳng, Đại thừa rất thâm thúy; và các Khế kinh thành Tạp tạng.”
Theo phần Tự của kinh, sự
kết tập của A-nan là kết tập thành 4 tạng; kinh Phương đẳng, kinh Đại thừa là
thuộc về Tạp tạng thứ tư. Sau đó, luận giải thích [thích luận] của kinh Tăng
nhất A-hàm – luận Phân biệt công đức, mới tách riêng ra để thành lập
nên Bồ-tát tạng thứ 5. Đây là đem nguồn gốc của tư tưởng Bồ-tát Đại thừa suy luận
đến ‘cuộc kết tập bên ngoài’ sớm nhất. Nhưng đây quyết chẳng phải là nghĩa
chính của Đại chúng bộ, luật Ma-ha tăng-kỳ của Đại chúng bộ mà hiện nay
còn, không có nói đến cuộc kết tập kinh Đại thừa. Nhưng từ ‘kẻ hậu tấn tương
lai ôm hồ nghi’ của phần Tự trong kinh để luận, thì sự thành lập của phẩm Tự,
chính là vì trong khi kết tập nói đến pháp Đại thừa, sợ mọi người hoài nghi nên
soạn riêng phần Tự của kinh. Cho nên, tư tưởng Đại thừa (6 độ, v.v.) của Đại
chúng bộ, khởi đầu được hàm chứa trong Tạp tạng,5
sau đó phát triển rồi lập riêng thành Bồ-tát tạng, đã cho thấy lịch trình khởi
nguồn ở trong Đại chúng bộ rồi tiến triển đến Đại thừa. Có người cho rằng: văn
hiến mà đáng tin của Đại chúng bộ thì chỉ có luật Ma-ha tăng-kỳ và Đại
sự, như truyền thuyết của phần Tự trong kinh Tăng nhất A-hàm, truyền
thuyết trong Bộ chấp dị luận sớ của Chân đế, truyền thuyết trong Tây
vực ký của Huyền Trang, thì không thể dùng làm tư liệu có thẩm quyền về lịch
sử được.6 Nhưng những truyền thuyết
này là truyền thuyết chung của cổ đại đến từ Ấn độ, cố nhiên không thể căn cứ
trên mặt văn tự để lý giải, thật sự cũng không có tồn tại nhân tố sự thật nào ở
sau truyền thuyết đó để đáng được chúng ta phải khảo sát xem xét chăng?
Vấn đề Phật pháp Đại thừa
là chẳng phải do Phật thuyết, trong giáo khu Đại thừa ở Trung Quốc và Nhật Bản,
v.v., từ sớm đã không thành vấn đề. Đến thời cận đại, do vì tiếp xúc với Phật
giáo Nam truyền, vấn đề ‘Đại thừa chẳng phải do Phật thuyết’ lại nổi lên một lần
nữa, học giả Đại thừa đương nhiên là không thể đồng ý. Ban đầu, kế thừa truyền
thuyết của cổ đại, xem trọng tánh chung của Phật pháp Đại thừa và tư tưởng Bộ
phái để thực hiện việc nghiên cứu về sử, như Phật giáo thống nhất luận của
Murakami Senshō (村上專精), Đại thừa
Phật giáo sử luận của Maeda Eun (前田慧雲). Hai vị này đều
suy đoán rằng kinh Đại thừa là do Phật thuyết. Nhưng, kinh Đại thừa ở trong Bộ phái,
hoặc đã sớm tồn tại trước Bộ phái, giống như truyền thuyết của cổ nhân, thì rốt
cục vẫn không được những viết sử Phật giáo thời cận đại đồng ý. Đại thừa và Bộ
phái, đặc biệt là tánh chung với tư tưởng của Đại chúng bộ, đã nhận được sự xem
trọng của phổ biến những học giả, giải thích rằng Đại thừa từ tư tưởng Bộ phái,
đặc biệt là từ trong tư tưởng Đại chúng bộ phát triển ra. Như vậy, Đại thừa có
thể nói là ‘chẳng phải Phật thuyết’ mà lại ‘là Phật pháp’. Mối quan hệ với tư
tưởng Bộ phái, trải qua sự nghiên cứu của các học giả, càng rộng càng tỉ mỉ dần
dần. Như Bác sĩ Miyamoto Shōson (宮本正尊), chú ý đến Thí
dụ sư (Dārṣṭāntika) của Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin); Bác sĩ Mizuno
Kōgen (水野弘元) luận chứng mối
quan hệ, v.v., giữa kinh Đại thừa với Pháp tạng bộ, Hóa địa bộ (Mahīśāsaka).7 Ngoài nguồn gốc từ tư tưởng Phật giáo bộ
phái ra, còn chú ý đến mối qua hệ của Đại thừa với Áo nghĩa thư (Upaniṣad)
ở Ấn độ, Cơ-đốc giáo ở Tây phương.8
Dù là ảnh hưởng từ bên trong Phật giáo hay bên ngoài, cũng đều chú trọng về ngồn
gốc sâu xa của tư tưởng Phật giáo Đại thừa. Nghiên cứu về Phật giáo sơ kỳ
của Bác sĩ Hirakawa Akira (平川彰) đã khơi mở ra
một phương hướng mới – ‘khởi nguyên của Giáo đoàn Đại thừa’, đây là một kiến giải
trác việt! Vị ấy nêu ra lý do rằng Phật và Tăng có cái thể riêng, tháp Phật chẳng
phải là vật sở hữu của Tăng-già; và giữa các bộ phái chẳng thể cùng sống chung
và giao thiệp với nhau, thì Đại thừa đương nhiên cũng không thể cùng sống chung
với những người thuộc Phật giáo Bộ phái; kinh Đại thừa lấy 10 điều thiện làm thi-la
(giới) ba-la-mật, 10 điều thiện là giới của tại gia, v.v., suy luận rằng Đại thừa
với Phật giáo Bộ phái thuộc hàng xuất gia không có liên quan với nhau. Đại thừa
không phát xuất từ Phật giáo Bộ phái thuộc hàng xuất gia, nên suy luận rằng có
tập đoàn của chùa và tháp thuộc hạng chẳng phải Tăng chẳng phải tục, để giải
thích khởi nguyên của Giáo đoàn Đại thừa. Nếu quả đúng như thế, thì Giáo đoàn Đại
thừa ban đầu, ngược lại rất gần giống với hình thức của Phật giáo của Nhật Bản
hiện đại. Thuyết này, đại khái nhận được sự hoan nghênh của giới Phật giáo Nhật
Bản, có lẽ đây chính là nguồn cơn ý thức của người có quan điểm đó! Nhưng, tháp
Phật và Tăng-già xuất gia có cái thể riêng, tháp Phật chẳng phải sở hữu của
Tăng-già, phải chăng có nghĩa là tháp Phật với người tại gia, hoặc những người
chẳng phải Tăng chẳng phải tục, là cùng một cái thể? Tháp Phật thuộc về vật sở
hữu của những người chẳng phải Tăng chẳng phải tục? Giữa các bộ phái thật sự
không thể giao thiệp với nhau chăng? Giới thập thiện chỉ thuộc về người tại gia
chăng? Những vấn đề này cần phải nghiên cứu nhiều hơn!
Mục 3. Con đường để giải
quyết vấn đề
‘Từ Phật pháp đến Phật
pháp Đại thừa’, hoặc từ nguồn gốc sâu xa của Giáo nghĩa, hoặc từ khởi nguyên của
Giáo đoàn, các học giả cận đại đã cống hiến những ý kiến quý giá theo nhiều
phương diện. Nhưng nghiên cứu vấn đề này, thật sự không hề dễ dàng! 1) Văn hiến
không đủ: do vì đặc tánh của văn hóa Ấn độ không chú trọng lịch sử, mà Thánh điển
của hệ Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) lại phần lớn đều mất mát; trên phương diện sử
liệu, không đủ hoàn chỉnh, không đủ rõ ràng chánh xác, đây là việc không có
cách gì khắc phục được. 2) Vấn đề quá rộng: nghiên cứu vấn đề này, mà đối với
‘Phật pháp’ – ‘Phật giáo nguyên thỉ’ và ‘Phật giáo Bộ phái’, ‘Phật pháp Đại thừa’
thuộc sơ kỳ, chẳng có hiểu rõ thì không được. Nhưng hai phương diện này, tuy
nói sử liệu không đủ hoàn chỉnh, mà nội dung lại phong phú, rộng rãi và phức tạp
vô cùng, người nghiên cứu không dễ gì có cái nhìn đủ bao quát hết được. 3) Ý kiến
của người nghiên cứu: chẳng phải là đệ tử Phật, mà vốn mang quan niệm của Thần
học, Triết học để nghiên cứu, thì không dễ gì có ra được kết luận chính xác. Trong
hàng đệ tử Phật, có người hoặc là xem trọng luật chế, hoặc là xem trong pháp
nghĩa, hoặc là xem trọng tín ngưỡng, hoặc là xem trọng tại gia, luôn luôn là có
tín ngưỡng và kiến giải cố hữu của cá nhân ở bên cạnh, thì không thể xử lý vấn
đề này cho hoàn chỉnh, chính xác được. Đối với vấn đề lớn không dễ nghiên cứu
này, tác giả cũng chưa hẳn có thể có thành tích tốt hơn! Chỉ có dùng hết khả
năng mà mình có, cố gắng tiến hành nghiên cứu một cách trung thực nhất. Sự
nghiên cứu của sách này, đem chia thành 3 phần: 1) từ Phật giáo truyền thống,
lý giải khuynh hướng chung về sự hưng khởi của Phật giáo Đại thừa. 2) Phật pháp
Đại thừa sơ kỳ, truyền ra và phát triển theo nhiều phương diện. 3) Luận về sự
hoằng truyền của kinh Đại thừa sơ kỳ, cũng sẽ giải đáp vấn đề kinh Đại thừa là phải
hay không phải do Phật thuyết.
Trong quá trình từ ‘Phật
pháp’ rồi diễn tiến đến ‘Phật pháp Đại thừa’, có một điều có thể xem là nguyên
nhân căn bản, đó chính là ‘điều được phát sanh do Phật bát-niết-bàn, hàng đệ tử
của Phật đối với hoài niệm về sự vĩnh hằng của Phật’. Sự nhập bát-niết-bàn
(parinirvāṇa) của đức Thích tôn, theo Phật pháp để nói, thì chỉ là cứu cánh, chỉ
là viên mãn, quyết không có tơ hào thành phần bi ai và thương xót. Nhưng mà Phật đã niết-bàn, đối với sự chấn động và sầu
khổ được khởi lên bởi nhân gian Phật giáo, lại là điều khiến người ta khó thể
tưởng tượng. A-nan (Ānanda), khi Phật
niết-bàn, chính là một người đau buồn cực độ, như kinh Du hành trong quyển
4 của kinh Trường A-hàm (T. 1, tr. 25b-c) nói:
“A-nan đứng ở sau Phật, vỗ
giường mà khóc, không thể ngăn được, nức nở nói rằng: Như lai diệt độ, sao mà
chóng quá! Thế tôn diệt độ, sao mà vội quá! Đại pháp chìm mất, sao mà nhanh
quá! Quần sanh đau khổ triền miên, con mắt của thế gian đã diệt. Vì sao vậy?
Con nhờ ơn của Phật nên đắc được học địa, sự nghiệp chưa thành, mà Phật diệt độ!”
Sự bi cảm xót thương này,
trong hàng đệ tử Phật, đều không phải nhân thời gian qua đi mà nhạt mất, ngược
lại, vẫn nhân thời gian qua đi nên lớn dần thêm, như Cao Tăng Pháp Hiển truyện
(T. 51, tr. 860c, 863a) nói:
“Nhớ xưa kia, đức Thế tôn
trụ ở đây (Kỳ viên) 25 năm. Tự đau xót mình sanh nơi biên địa,… Ngày nay vẫn thấy
Phật nơi hư không, lòng bất chợt thương cảm.”
“Pháp Hiển đi đến núi Kỳ-xà-quật,
cúng dường hoa, hương, đốt đèn sáng liên tục. Bùi ngùi xót xa, gạt lệ than rằng:
Ngày xưa Phật ở tại nơi này thuyết kinh Thủ-lăng-nghiêm, Pháp Hiển sanh ra không
được gặp Phật, chỉ thấy được di tích, xứ sở.”
Phật thuyết pháp cho con
người, ít nhiều người do từ Phật mà đạt đến sự an ổn, giải thoát, tự tại, nên
Phật trở thành đối tượng sùng ngưỡng và noi theo. Mặc dầu niết-bàn hoàn toàn
không phải là tiêu diệt, nhưng theo những người thông thường để nói, thì đây là
không thể gặp lại được. Bởi vậy, tâm tình do cảm ân đức, hoặc là có suy nghĩ về
Phật pháp, hoặc là suy nghĩ về chúng sanh, hoặc là sự bi cảm suy nghĩ chính
mình không có giải thoát nên khởi lên, đan xen lẫn nhau thành sự hoài niệm đối
với Phật, hoài niệm về sự vĩnh hằng. Đây là tình hình chung từ khi Phật niết-bàn
về sau, là Phật giáo nhân gian.
Hoài niệm về sự vĩnh hằng
của nhân loại đối với Phật, từ nhiều phương diện biểu đạt ra. 1) Sau khi Phật nhập niết-bàn, di thể của Phật – xá-lợi (śarīra), xây tháp để cúng dường; cung phụng các di vật của
Phật, như bát, v.v.; những nơi mà Phật đã đi qua, đặc biệt là nơi Phật đản
sanh, đạo tràng nơi Ngài thành Phật, địa phương Ngài chuyển Pháp luân và nhập
niết-bàn, hễ cái gì có quan hệ đặc thù với Phật thì đều xây tháp hoặc làm vật để
kỷ niệm, làm nơi làm lễ của hàng đệ tử Phật. Đây là kỷ niệm thuộc sự tướng,
cũng có thiểu số bộ phái xem là không có ý nghĩa gì to lớn,1 nhưng từ sự hoài niệm phát sanh đối với
Phật, sự truyền bá rộng rãi Phật pháp để nói, thì có sức ảnh hưởng rất lớn. Đây
là phương thức kỉ niệm nhằm sùng phụng phổ biến của giới Phật giáo, tuy là kỷ
niệm thuộc sự tướng, cũng có thể gợi lên sự tin tưởng và thực hành của tôn giáo
nhằm ‘cầu Phật’, ‘thấy Phật’, noi theo Phật-đà. 2) Trong việc trang nghiêm chùa
tháp, kính và nhớ âm thanh của Phật, sự tích cuộc đời của đức Thích tôn: truyền
thuyết tán dương, được gọi là ‘đại sự’, ‘nhân duyên’ thuộc xuất thế gian của Phật;
lại từ cuộc đời này mà truyền thuyết đến sự tích về sự tu hành trong đời quá khứ:
đây là nội dung chủ yếu của ‘bổn sanh’, ‘thí dụ’, ‘nhân duyên’ trong ‘mười hai
phần giáo’. Trong những truyền thuyết rộng rãi này, sự phát tâm của Bồ-tát, tu
hành tinh tấn vô hạn của Bồ-tát, lực thệ nguyện và hành vi quên mình vì người của
Bồ-tát, đầy đủ mà thanh khiết, đã vẽ ra một bức tranh về lịch trình trang
nghiêm của đạo Bồ-tát. Tuyên dương về hạnh to lớn của Bồ-tát, không chỉ là thứ
thuộc tín ngưỡng, mà là tấm gương tốt về sự tu học hiện tiền cho hàng đệ tử Phật.
Kỷ niệm về Phật, truyền thuyết về đạo Bồ-tát, là điều mà tất cả bộ phái đều có.
3) Trong truyền thuyết tán dương về sự tích cuộc đời của đức Phật, khoảng cách
giữa Phật và Tỳ-kheo-tăng, đã xa dần dần! Vốn là, Phật cũng được gọi là bậc
A-la-hán, nhưng ‘hàng Thánh đệ tử đa văn’ (Thanh văn) mà đắc quả A-la-hán, khôn
có rốt ráo giống như Phật, dần dần được nêu bày ra, chính là ‘5 sự’ của Đại
Thiên (Mahādeva) nổi tiếng. Các phái của Thượng tọa bộ (Sthavira) đắn đo đến sự
thật về cuộc sống chung của đức Thích tôn và Tỳ-kheo-tăng, tuy kiến giải có ít
nhiều bất đồng, nhưng ‘Phật ở trong số chư Tăng’, cuối cùng vẫn là một thành
viên của Tăng-già.2 ‘Phật ở
trong số chư Tăng, không ở ngoài chư Tăng’, chỉ là một trong những ‘dị luận’ giữa
các bộ phái.3 Phật ‘không ở trong số
chư Tăng’, chỉ là ý tưởng Phật siêu việt ra khỏi Tỳ-kheo-tăng của hệ Đại chúng
bộ. Đức Phật-đà vô cùng vĩ đại, ở trong tâm hoài niệm và tín ngưỡng, đã xuất hiện
Phật đà quan về sự rốt ráo, viên mãn, thường tại. ‘Thân của Phật thường tại’, đã
bổ sung cho sự trống vắng trên mặt tâm lý từ khi Phật bát-niết-bàn về sau. Đến
đây, khoảng cách giữa hàng A-la-hán thuộc Thanh văn và Phật, đúng là đã quá xa!
Phật-đà luôn luôn tồn tại, do vậy từ trong sự thật hành về Thánh đạo, cầu Phật,
thấy Phật, tiến vào nội dung chánh giác của Phật-đà, cũng đã có ít nhiều khác với
sự chứng nhập của hàng A-la-hán. Những tín ngưỡng, truyền thuyết, lý tưởng, (tu
hành) này, tổng hợp lại, pháp Đại thừa cũng sẽ có hiện ra rõ ràng. Đây đều là
có nguồn gốc từ ‘điều phát sanh do Phật bát-niết-bàn, hoài niệm về sự vĩnh hằng
đối với Phật’, có thể nói là manh mối chung của quá trình từ ‘Phật pháp’ rồi diễn
tiến đến ‘Phật pháp Đại thừa’.
‘Điều phát sanh do Phật
bát-niết-bàn, hoài niệm của hàng đệ tử Phật đối với sự vĩnh hằng của Phật’, là
vào sau khi Phật nhập diệt, là bước tiến hành trung gian giữa ‘Phật giáo Nguyên
thỉ’ và ‘Phật giáo Bộ phái’. Sự giáo hóa của thời đại đức Thích tôn là nhân vì
thời gian, nhân vì địa điểm, nhân vì căn tánh của con người mà nói, phân hóa
thành Pháp (Dharma) và Tỳ-ni (Vinaya). Kinh ‘Pháp’ được kết tập thành ấy, có 4
tôn chỉ lớn – ‘cát tường vui vẻ’, ‘đáp ứng đủ sự mong cầu’, ‘đối trị sư nghi ngờ’,
‘nêu cao chân nghĩa’, thành lập thành 4 bộ A-hàm. ‘Tỳ-ni’, trong quá
trình phát triển, có thân thanh tịnh, lời thanh tịnh, ý thanh tịnh, mạng sống
thanh tịnh – 4 loại thanh tịnh; hạ giới, trung giới, thượng giới – giới cụ túc;
3 loại lớn, gồm Ba-la-đề-mộc-xoa, v.v. Cho nên dù là sự tu chứng về Pháp, thọ
trì giới (thực hành thành khuôn phép), ở trong Phật giáo Bộ phái, nếu như có sự
nghiêng lệch, đều có tánh khả năng dẫn đến sanh ra sự sai khác. Từ khi Phật diệt
độ về sau, Phật giáo lấy chúng tỳ-kheo xuất gia làm trung tâm. Hàng tỳ-kheo ở
trong Tăng đoàn, đúng như pháp tu hành, nhiếp hóa tín chúng, tùy theo tánh cách
và sở thích của cá nhân, từ sự pháp vụ khác nhau, hàng tỳ-kheo có tên gọi khác
nhau, vả lại, vật tụ theo loại, vào thời của Phật đã có khuynh hướng tập đoàn bất
đồng. Chủng loại của tỳ-kheo rất nhiều, những loại chủ yếu, có: ‘những người
trì Pháp’ (Dharmadhara – Kinh sư), ‘những người trì Luật’ (Vinayadhara – Luật
sư), ‘những người luận về Pháp’ (Dharmakathika – Luận sư), ‘những người Bối-nặc’
(Bhāṇaka – người đọc tụng, thuyết pháp), ‘những người Du-già’ (Yogādātṛ - Thiền
sư). Người muốn nhằm ghi nhớ những Kinh pháp được biên tập thành, và những kinh
được cùng thẩm định phải chăng là Phật pháp truyền lại, trở thành ‘Kinh sư’ (ban
đầu, từ ghi nhớ nên gọi là ‘người nghe nhiều’). Người muốn nhằm ghi nhớ Giới luật,
rành rẽ nhân duyên để chế luật; và các qui chế có liên quan đến Tăng đoàn; chủ
trì yết-ma (hội nghị) đúng như pháp; đối với người vi phạm Luật chế, phân biệt
được phạm tội nhẹ hay tội nặng, và phải phân xử như thế nào, trở thành ‘Luật
sư’. Luật học mà vị Luật sư trì, là tri thức rất phong phú và kín kẽ. Giống như
khi gặp vấn đề mới, vẫn cần phải đến cơ quan hành pháp, căn cứ vào ý nghĩa của
Luật rồi giải thích cho nó. ‘Luận sư’ là người đem những Kinh pháp do Phật tùy
theo căn cơ thuyết lập giáo pháp, cho nó sự chỉnh lý, phân biệt, lựa chọn. Suy
tìm ‘tướng riêng’, ‘tướng chung’ ‘thuộc về tướng’, ‘tương ưng’, ‘nhân duyên’,
v.v., đem Phật pháp đặt trên cơ sở khách quan của tánh phổ biến, mạch lạc, hệ
thống, phát triển thành A-tỳ-đạt-ma (Abhidharma). A-tỳ-đạt-ma vốn là quán hiện
thực về chân lý, nhưng trong sự phát triển của Luận A-tỳ-đạt-ma, trở thành học
vấn mang tánh tư biện chặt chẽ. Luật sư và Luận sư A-tỳ-đạt-ma, có học phong vô
cùng gần gũi, chỉ là vấn đề xử lý khác nhau mà thôi. Người luận về pháp, nếu
như giáo hóa theo khuynh hướng thông tục, thì cần phải làm cho thính chúng
thông thường dễ tin, dễ tiếp thu, cho nên căn cứ vào Kinh pháp vắn tắt, kết hợp
với ‘Thí dụ’, ‘Bổn sanh’, ‘Nhân duyên’, v.v. Thuyết pháp theo thông tục, so với
những người Luận về A-tỳ-đạt-ma, là cùng nguồn mà khác dòng, ở phương Bắc thì
có ‘những người Thí dụ’ (Dārṣṭāntika) trì Kinh. ‘Những người Bối-nặc’ là những
người dùng âm thanh để làm Phật sự, khi đại chúng tập trung lại, làm các pháp sự
như chủ trì việc tụng kinh, tán kệ, xướng để dẫn chúng, v.v., so với những người
thuộc Thí dụ thì càng thông tục hơn, ảnh hưởng đến sự phát triển Phật giáo rất
lớn! ‘Những người thuộc Du-già’ đa số là những người thực hành hạnh đầu-đà sống
nơi a-lan-nhã, sống riêng để chuyên tu thiền và tu huệ. Trong sự phân hóa Phật
giáo, Thượng tọa bộ (Sthavira) là bộ trọng Luật, ‘khinh – trọng đều trì như
nhau’, mỗi khi chia ra một bộ, thì có tạng Luật khác của một bộ đó. Đối với
Pháp, phân biệt, chọn lựa nên trở thành ‘Tạng A-tỳ-đạt-ma’. Luật chế và Luận
A-tỳ-đạt-ma đều là nghiêm cẩn, chặt chẽ, trọng về phân biệt sự tướng. Đại chúng
bộ là bộ phái trọng về Pháp; trọng sự hành trì Pháp; trọng sự thông suốt mà
không trọng sự phân biệt. Đối với Luật, do trọng căn bản nên sanh hoạt khá ‘tùy
nghi’, ‘tùy nghi’ nhưng không phải giống như phóng dật, ngược lại có khuynh hướng
hành a-lan-nhã. Hàng đệ tử Phật đối diện với Phật giáo Bộ phái đương thời, lại
không ngừng nhớ nhung, trông ngóng về đức Phật-đà: sự tu hành khi còn là Bồ-tát,
thành Phật, thuyết pháp những giới pháp mà Ngài đã từ bi chỉ dạy nhằm giáo hóa
bốn chúng đệ tử vào thời kỳ đầu. Người có hoài niệm về sự vĩnh hằng của đức Phật-đà,
sẽ trực giác được ‘Pháp Tỳ-ni’, khác với Luật chế phân biệt tinh nghiêm, A-tỳ-đạt-ma
(kinh Đại thừa sơ kỳ rất ít khi nói đến A-tỳ-đạt-ma và Ba-la-đề-mộc-xoa của Tỳ-ni).
Sự hưng khởi của Đại thừa sơ kỳ là trọng về Pháp, giản dị, trọng về trí huệ và
giác ngộ mà không trọng về phân biệt. Trên là noi theo 4 hạnh thanh tịnh của đức
Thích tôn, hoặc giới pháp ‘chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng’ của Sơ kỳ; xem
trọng ‘4 Thánh chủng’ (4 chỗ nương tựa), không trọng qui chế của Tăng-già. Đại
thừa trọng huệ, có học phong gần với hệ Đại chúng. Ngoài ra, trong Phật giáo có
‘tỳ-kheo a-lan-nhã’, ‘tỳ-kheo (ở gần) tụ lạc’. Tỳ-kheo a-lan-nhã, đa số là ‘những
người hành Du-già’, hoặc đầu-đà khổ hạnh. Tỳ-kheo ở gần tụ lạc, gắn liền với tự
tháp và tinh xá, cùng trụ với đại chúng, qua cuộc sống tập đoàn. ‘Kinh sư’, ‘Luật
sư’, ‘Luận sư’, ‘Những người thuộc Thí dụ’, ‘Những người thuộc Bối-nặc’, đều sống
ở trong ấy. Ở nơi đây có chùa tháp trang nghiêm, đại chúng cùng sinh sống. Những
tín chúng tại gia thọ quy y, thọ 5 giới hoặc 8 giới quan trai, người lễ bái,
người bố thí cúng dường, người nghe pháp, người tụng kinh, người sám hối, đều
nương vào đây để làm theo các hành vi tôn giáo. Kinh sư, Luật sư, Luận sư, trọng
về giáo hóa nội bộ Tăng-già; Những người Thí dụ và Những người Bối-nặc thì trọng
về việc nhiếp hóa đối với chúng tại gia. Nếu người nào trọng huệ thì đọc, tụng,
thuyết pháp; người nào trọng niềm tin thì niệm Phật, sám hối, chính là ở tại đây
khai triển ra. ‘Điều phát sanh do Phật bát-niết-bàn, hoài niệm về sự vĩnh hằng
của Phật’, đã hình thành nên những sự thật mới, những truyền thuyết và lý tưởng
mới này, đã dẫn đến sanh ra ‘Phật pháp Đại thừa’; nhưng đây là đã thông qua sự
bất đồng về khuynh hướng của nội bộ Phật giáo mà khai triển, điều này cần phải
từ các bộ phái khác nhau, lại phải truy tìm về Kinh, Luật nguyên thỉ để lý giải
ra.
‘Phật pháp Đại thừa’ là
Phật pháp mới hưng khởi nơi biên địa. Khu vực mà được Đức Thích tôn du hóa đến
thì gọi là ‘vùng giữa nước’; khu vực ở ngoài ‘vùng giữa nước’ được gọi là ‘biên
địa’. Ngài Ma-ha Ca-chiên-diên (Mahākātyāyana), Phú-lâu-na (Pūrṇamaitrāyaṇīputra)
vào thời Phật tại thế, đã đi đến vùng biên địa như A-bàn-đề (Avanti), v.v., hoằng
pháp. Vào thời đại vua A-dục (Aśoka), phương Đông là nơi giáo hóa của Đại chúng
bộ, phương Tây là nơi giáo hóa của Thượng tọa bộ. Ma-thâu-la (Mathurā) ở phương
Tây là vùng nằm giữa ‘vùng giữa nước’ và ‘biên địa’. Từ nơi đây rồi phát triển
về hướng Tây Nam, lấy A-bạt-đề làm trung tâm, trở thành Phân biệt thuyết bộ
(Vibhajyavādin); phát triển về hướng Tây Bắc rồi truyền vào Kế-tân (Kaśmīra),
trở thành Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin). Từ thời vua A-dục trở về
sau, chánh giáo của ‘vùng giữa nước’ suy vi, mà vùng ‘biên địa’ thì lại hưng thịnh
lên. Từ Tỳ-xá-li (Vaiśālī), Ương-già (Aṅga), Thượng Ương-già (Aṅguttarāpa) của
phương Đông, truyền về hướng phương Nam, đến Ô-trà (Oḍra), An-đạt-la (Andhra) rồi
đại hưng thịnh lên, là một dòng do Đại Thiên trong Đại chúng bộ dẫn dắt. Phân
biệt thuyết bộ lưu hành xung quanh A-bạt-đề, lại chia ra Hóa địa bộ
(Mahīśāsaka), Pháp tạng bộ (Dharmaguptaka), Ẩm quang bộ (Kāśyapīya). Vùng
A-bàn-đề cũng là ở phương Nam, cùng với hệ Đại chúng của An-đạt-la, tiếp giáp với
sông Cù-đà-bà-lợi (Godāvarī), sông Cát-tư-na (Krishnā) nên có sự giao lưu giữa
Đông và Tây, trên tư tưởng cũng có khuynh hướng tương đồng. Thuyết nhất thiết hữu
bộ thịnh hành ở khu vực Kế-tân, các bộ Đại chúng, Hóa địa, Pháp tạng, Ẩm quang
cũng truyền đến nơi đây. Bộ phái đã phức tạp, mà về dân tộc thì đây cũng là nơi
có dân hỗn tạp của Du-na (Yavana), Ba-la-bà (Pahlava), Xa-ca (Saka), dân tộc và
văn hóa đều phức tạp nên có xu hướng dung hòa. ‘Điều phát sanh do Phật bát-niết-bàn,
hoài niệm về sự vĩnh hằng của Phật’, sự phát triển lên trong những khu vực khác
nhau, dân tộc và văn hóa khác nhau, thì Đại chúng bộ chính là bộ có khởi nguyên
ở phương Nam, truyền vào Kế-tân rồi đại hưng thịnh. Chịu ảnh hưởng của văn hóa
dân tộc khác, tôn giáo của dân tộc khác, là ‘chuyện chẳng đặng đứng’, nhưng Đại
thừa sơ kỳ, không phải là sự cấy ghép của văn hóa khác, tín ngưỡng khác, mà là
sự phát triển của chính bản thân Phật giáo, hình thành được sự thích ứng mới,
tín ngưỡng mới.
‘Điều phát sanh do Phật
bát-niết-bàn, hoài niệm về sự vĩnh hằng của Phật’ là động lực gốc của ‘Phật
pháp đến Phật pháp Đại thừa’. Đối với hoài niệm về sự vĩnh hằng của Phật, biểu
hiện ở việc kỷ niệm bằng tháp, chùa, v.v., truyền thuyết và lý tưởng về Phật và
Bồ-tát. Tuy mức độ của các phương diện không bằng nhau, nhưng quả thật đó là điểm
chung của giới Phật giáo. Thông qua Bộ phái, sự nghiệp hoằng pháp khác nhau, sự
thích ứng với dân tộc và văn hóa khác nhau, thai nghén ra cơ hội mới – ‘Phật
pháp Đại thừa’. Từ Chương 2 – Chương 8 của sách này chính là lấy ‘hoài niệm về
sự vĩnh hằng của Phật’ làm manh mối chung, thử giải đáp vấn đề nguồn gốc sâu xa
của Phật pháp Đại thừa.
‘Phật pháp Đại thừa’ đã
truyền ra 10 phương Phật hiện tại, 10 phương Tịnh độ, Bồ-tát vô số, Phật và Bồ-tát
hiện tại, cho nên ‘điều phát sanh do Phật bát-niết-bàn, hoài niệm về sự vĩnh hằng
của Phật’, trên hình thức đã có ít nhiều thay đổi. Nhưng học tập hạnh Bồ-tát để
thành Phật, xem thành Phật là lý tưởng tối cao, xem niệm Phật, thấy Phật là hạnh
quan trọng của Bồ-tát, cho nên ‘hoài niệm về sự vĩnh hằng của Phật’ (tuy đã nhạt
dần dần đối với Phật Thích-ca), thực chất là không có bất đồng quá nhiều (niệm
sắc tướng của Phật, thấy sắc tướng của Phật, lại là điều mà ‘Phật pháp Đại thừa
bí mật’ xem trọng). Sự hưng khởi của Đại thừa, là một xu hướng lớn của giới Phật
giáo lúc bấy giờ (mức độ không bằng nhau), phức tạp nhưng khuynh hướng thì cùng
một lý tưởng to lớn – cầu thành Phật đạo. Lấy căn tánh để luận, thì có người thực
hành bằng niềm tin thì trọng về niềm tin, có người thực hành bằng Pháp thì trọng
về trí, lại có người lấy tâm Bồ-tát làm cốt yếu thì trọng về bi; thói quen khác
nhau cho nên trong cơ hội để hưng khởi Đại thừa, kinh điển từ nhiều phương diện
truyền ra, số lượng và chủng loại là tương đối nhiều. Sự truyền ra của kinh Đại
thừa, ban đầu thì không quá dài. Nếu như có luận đề trung tâm độc đáo, đại biểu
cho nội dung trọng yếu của tư trào Đại thừa, sẽ nhận được sự tôn trọng nên đặc
biệt phát triển lên, có kinh cuối cùng trở thành một bộ lớn gồm 100.000 bài tụng
(3.200.000 lời). Sự truyền ra của kinh Đại thừa sơ kỳ, số lượng và chủng loại
vô cùng nhiều, lại là dài ngắn, sâu cạn bất nhất, phải trình bày về quá trình
khai triển của Đại thừa sơ kỳ, không quy nạp thành loại lớn để phân biệt trình
bày thì không thể được. Chương 9 – Chương 14 của sách này chính là từ ‘Phật
pháp’ phát triển mà ra, trong kinh Đại thừa sơ kỳ, phân biệt giải thích về nội
dung trọng yếu của chúng.
1. ‘Sự mở đầu của Phật
pháp’: từ ‘Phật giáo Bộ phái’ rồi tiến vào ‘Phật pháp Đại thừa’, nhất định có một
số thuộc về ‘Phật giáo Bộ phái’, lại dẫn hướng về Đại thừa, trở thành giáo điển
Đại thừa, khởi lên thành Thánh điển để làm tác dụng trung gian. ‘Kinh Đại thừa đi
trước [làm tiên phong]’ mà những học giả Nhật Bản đã nói, có một số thuộc về loại
này. Đối với ‘Phật pháp Đại thừa’ để nói, thì đây là sự mở đầu của Đại thừa, có
tính tất yếu đi đầu làm phạm vi thảo luận.
2. ‘Pháp môn Bát-nhã’: kế
thừa 6 ba-la-mật – hạnh Bồ-tát, của Phật giáo Bộ phái, nhưng chú trọng về
bát-nhã ba-la-mật nhằm ngộ nhập vào nghĩa lý sâu xa; đặc tính của hạnh Bồ-tát Đại
thừa, trong kinh Bát-nhã ba-la-mật, đã biểu đạt ra đầy đủ, trở thành
trái tim của Phật pháp Đại thừa, đã ảnh hưởng đến tất cả kinh Đại thừa. Số lượng
và chủng loại của kinh Bát-nhã, mà thuộc về Đại thừa sơ kỳ, như 5 phần đầu
(và các bản dịch có cùng nguyên bản mà bản dịch khác nhau) của kinh Đại
Bát-nhã và phần Kim cang Bát-nhã, do Đường Huyền Trang dịch. Toàn bộ
bộ kinh là được biên tập thành theo thứ tự, từ sự biên tập theo thứ tự để tìm
hiểu, thì có thể chia thành ‘Nguyên thỉ Bát-nhã’, ‘Hạ phẩm Bát-nhã’, ‘Trung phẩm
Bát-nhã’, ‘Thượng phẩm Bát-nhã’, 4 loại này cũng chính là lịch trình phát triển
của ‘Pháp môn Bát-nhã’. Năm phần đầu của kinh Bát-nhã đã trải qua thời
gian dài khoảng 250 năm (50 B.C – 200 A.D.) để hoàn thành. ‘Pháp môn Bát-nhã’,
từ pháp môn sâu xa của thiểu số những người có trí huệ giác ngộ, diễn biến
thành pháp môn mà đại chúng cũng có thể tu học; do khai thị nên có khuynh hướng
giải thích; do giản yếu nên có khuynh hướng hoàn bị; do sự thượng cầu bồ-đề của
Bồ-tát nên chú trọng việc hạ hóa chúng sanh. Đặc biệt là, dùng ‘duyên khởi
không’ để biểu thị cho nghĩa sâu xa của Bát-nhã, phát triển thành ‘Pháp môn
Trung quán’ ở thời đại sau.
3. ‘Pháp môn Tịnh độ’: Tịnh
độ của Phật A-súc (Akṣobhya) và Tịnh độ của Phật Di-đà (Amitābha) – hai Tịnh độ
lớn của phương Đông và phương Tây, là 2 Tịnh độ nổi tiếng của Đại thừa sơ kỳ,
là 2 Tịnh độ được các hành giả Đại thừa bấy giờ hướng về. Cõi của Phật A-súc là
cõi trọng về trí, có liên quan với kinh Bát-nhã, v.v.; Tịnh độ của Phật A-di-đà
trọng về niềm tin, về sau kết hợp với kinh Hoa nghiêm. Sự biên tập thành
của Thánh điển thuộc 2 Tịnh độ lớn này, khoảng vào đầu thế kỷ 1 A.D. Hai Tịnh độ
lớn này, mỗi Tịnh độ đều có đặc tính khác nhau, lưu hành trong giới Phật giáo Đại
thừa, hành giả Đại thừa có ý kiến khác nhau, phản ứng trong kinh Đại thừa, điều
có thể từ kinh Đại thừa tìm được đáp án chính xác.
4. ‘Pháp môn Văn-thù-sư-lợi’:
Văn-thù-sư-lợi (Mañjuśrī) có đặc tính của Phạm thiên, là người khởi xướng cho
pháp giới sâu xa, là người khai mở cho tín tâm (tâm bồ-đề) Đại thừa, đại biểu
cho yếu nghĩa của ‘tín – trí nhất như’, cho nên được tôn xưng là ‘Đại trí
Văn-thù’. Những kinh điển – toàn bộ hoặc bộ phận, được Văn-thù tuyên thuyết,
trong Đại thừa sơ kỳ, số lượng và chủng loại vô cùng nhiều, thể hiện ra điểm đặc
sắc chung: phần lớn là thuyết cho chư thiên (thần), thuyết cho Bồ-tát ở phương
khác; đối với Thánh giả đại biểu cho Phật giáo truyền thống, luôn cho nó sự quở
trách hoặc nhục mạ; là pháp môn xem trọng ‘phiền não tức bồ-đề’, ‘dục là phương
tiện’. ‘Pháp môn Văn-thù’ dựa vào ý nghĩa ‘cái không bình đẳng’ của
Bát-nhã, mà đã có sự phát triển độc đáo. Đối với người tại gia, người thích thần
bí, người thích dục lạc, Phật giáo hậu kỳ có sự đồng hóa giữa Phạm và Phật, thì
‘Pháp môn Văn-thù’ đã cho sự khai mở rất mạnh mẽ!
5. ‘Pháp môn Hoa nghiêm’:
sự biên tập thành của toàn bộ kinh Đại phương quảng Phật hoa nghiêm, so
với ‘Thượng phẩm Bát-nhã’ thì trễ hơn một ít, đã có bao hàm thành phần của Đại
thừa hậu kỳ. Như tên kinh đã cho thấy, đây là Thánh điển nói về vạnh hạnh của Bồ-tát,
công đức trang nghiêm của Phật; ‘Hoa tạng’ là ‘Liên hoa tạng trang nghiêm’, đã
thể hiện ra sắc thái của ‘Như lai tạng’. Hạnh Bồ-tát được sơ kỳ biên tập ra,
như ‘Bổn nghiệp’ của Bồ-tát – phẩm Tịnh hạnh, giai vị tu hành của Bồ-tát – phẩm
Thập trụ, phỏng đoán là được biên tập ra trong thời gian gần với ‘Hạ phẩm
Bát-nhã’. Phật của ‘Pháp môn Hoa nghiêm’ là kế thừa quan điểm của Đại chúng bộ,
Phật có tính cách siêu việt, lý tưởng, tên là Tỳ-lô-giá-na (Vairocana). Căn cứ
vào đây để nói hạnh Bồ-tát, cho nên đa phần nói về Pháp thân và hạnh Bồ-tát; phần
nhiều là ở trên trời, thuyết cho các Bồ-tát thuộc loài trời (và Bồ-tát ở phương
khác); ‘Thế chủ’ đa số là Dạ-xoa (Yakṣa); trong phần dịch thêm của phẩm Nhập
pháp giới, cũng đều là Bồ-tát thuộc thiên (thần); địa vị của Kim cang thủ
(Vajrapāṇi) là rất cao; Phổ Hiền (Samanta-bhadra) có đặc tính của Đế Thích
(Indra), so với Văn-thù, còn quan trọng hơn nhiều. Pháp môn viên dung vô ngại,
có khí vị phong phú về lý tưởng, thần bí và nghệ thuật. Phẩm Thập địa nổi tiếng,
đã có chịu ảnh hưởng của luận nghĩa phương Bắc, cho nên trật tự nghiêm mật, đã
dựng lập nên hình thức điển hình của ‘Luận Kinh’.
6. ‘Các pháp môn khác’: kinh
Đại thừa sơ kỳ mà không thuộc về 4 loại ở trước, vẫn còn rất nhiều. Như thuyết
pháp ở Long cung và Quỷ quốc, kinh Pháp hoa và kinh Bảo tích có đại
vị đặc thù trong Phật điển, sẽ trình bày thêm cho chúng để phân biệt. Có một số
tính chất tương đồng, nhưng phổ biến ở trong kinh Đại thừa, như Giới học, Định
học, Huệ học của Đại thừa, tùy theo loại mà quy nạp lại, có thể hiểu rõ kinh Đại
thừa sơ kỳ, có sự đặc sắc đối với những vấn đề này.
‘Điều phát sanh do Phật niết-bàn,
hoài niệm về sự vĩnh hằng của Phật’, trong Phật giáo truyền thống, từ nhiều
phương diện phát triển lên, thúc đẩy thành tựu sự hưng khởi của ‘Phật pháp Đại
thừa’; sự hưng khởi của Đại thừa, thật sự đó là điều gì đến sẽ phải đến, là xu
hướng chung của giới Phật giáo. Sơ kỳ Đại thừa, phỏng đoán phát sanh từ năm 50
B.C. đến sau năm 200 A.D. Từ diều phương diện truyền ra, phát triển, lại ảnh hưởng
lẫn nhau, chủ yếu là sự truyền bá về công đức của Phật, hạnh Bồ-tát. Lúc ấy, 10
phương Phật và Bồ-tát hiện tại, đã khai phá ra cảnh giới mới, cũng đã làm thỏa
mãn sự hoài niệm được phát sanh nhân vì Phật nhập niết-bàn. Kinh Đại thừa từ
đâu mà có, có phải là Phật thuyết chăng, hẳn có thể đã kết luận được rồi. Sách
này từ lập trường Phật giáo (tôn giáo), từ chính bản thân kinh Đại thừa sơ kỳ để
tìm kiếm chứng cứ. Pháp của kinh Đại thừa sơ kỳ, rốt cục là ai truyền ra? Là truyền
ra như thế nào? Sauk hi đã truyền ra, do những người nào thọ trì, truyền bá?
Pháp môn Đại thừa xuất hiện ở trong giới Phật giáo, dần dần lưu hành ra, người
có thói quen về chế độ, nghi thức, tín ngưỡng của Phật giáo truyền thống, thì
không tránh khỏi phải kinh ngạc, hoặc dẫn đến phát sanh hành vi hủy báng, bài
xích. Đối với (bộ phận) những người phản đối thuộc Phật giáo truyền thống, hành
giả Đại thừa đã có thái độ gì, phương pháp ứng phó ra sao, để cuối cùng mỗi
ngày có thể phát dương quảng đại thêm? Kinh Đại thừa sơ kỳ là truyền ra, thọ
trì và truyến bá như vậy, nói theo Phật pháp, thì Đại thừa là của Phật thuyết;
cũng đã giải đáp vấn đề lớn – kinh Đại thừa sơ kỳ là do Phật thuyết hay chẳng
phải do Phật thuyết.
Tiết 2. Kinh Đại thừa sơ
kỳ
Mục 1. Đại thừa sơ kỳ và
Đại thừa hậu kỳ
Từ ‘Phật pháp’ –
‘Phật giáo Nguyên thỉ’, ‘Phật giáo Bộ phái’, rồi diễn tiến đến ‘Phật pháp Đại
thừa’, cần phải nói rõ quá trình diễn tiến này, thì đương nhiên phải y cứ vào
kinh Đại thừa thuộc sơ kỳ. ‘Phật pháp Đại thừa’ có sự sai biệt giữa sơ kỳ và hậu
kỳ, là điều được giới học thuật công nhận. Nhưng sơ kỳ và hậu kỳ, rốt cục y cứ
vào tiêu chuẩn nào để tách biệt ra? Sự diễn tiến của tư tưởng Phật giáo là có
nhiều phương diện, như quyển 2 của kinh Giải thâm mật (T. 16, tr. 697a-b)
nói:
“Đầu tiên, vào
thời thứ nhất, trong khu rừng Thí lộc (Mṛgadāva) thuộc xứ mà những tiên nhân bị đọa tên là
Bà-la-ni-tư (Vārāṇasi), chỉ vì có người
phát tâm hướng đến Thanh văn thừa, nên Phật dùng tướng của Tứ đế để chuyển bánh
xe chánh pháp… Xưa, trong thời thứ hai, chỉ vì những người phát tâm hướng đến
tu Đại thừa, Phật dựa vào tất cả pháp đều không có tự tánh, không có sanh,
không có diệt, xưa nay vốn tịch tĩnh, tự tánh của niết-bàn, dùng tướng sâu kín
để chuyển bánh xe chánh pháp… Nay, trong thời thứ ba, vì khắp cả những người
phát tâm hướng đến Nhất thiết thừa, Phật dựa vào tất cả pháp đều không có tự
tánh, không có sanh, không có diệt, xưa nay tịch tĩnh, tự tánh niết-bàn, tánh
không có tự tánh, dùng cái tướng rõ rệt để chuyển bánh xe chánh pháp.”1
Đây là thuyết 3
thời giáo nổi tiếng. Học giả Du-già y cứ vào thuyết 3 thời giáo này, nói quả
quyết rằng: thời giáo thứ 2 nói tất cả pháp đều không có tự tánh, là không, là
thuộc bất liễu nghĩa. Thời giáo thứ 3 dựa vào 3 tánh, 3 vô tánh, trình bày rằng
tánh biến kiế sở chấp là không, tự tánh y tha khởi, tự tánh viên thành thật là
có, mới là liễu nghĩa. Thời đầu tiên nói Tứ đế, là pháp Thanh văn (đại biểu cho
Phật giáo Nguyên thỉ và Phật giáo Bộ phái). Trong pháp Đại thừa, đầu tiên nói tất
cả pháp đều không có tự tánh, là không, về sau giải thích là ‘không có của cái
không có, có của cái có’: đây là pháp Đại thừa xác chứng cho sự phân chia tiền
kỳ và hậu kỳ. Tất cả kinh là của Phật thuyết, cho nên biểu thị thành 3 giai đoạn
thuyết pháp của đức Thế tôn. Từ sự kinh Phật vì không ngừng được kết tập mà có
sự truyền ra trước sau để nói, thì đây chính là sự ghi chép về diễn tiến và
thay đổi theo thứ tự của Phật pháp.
Quyển 1 của luận
Cứu cánh Nhất thừa Bảo tánh dẫn kinh (phẩm Đà-ra-ni tự tại vương của
kinh Đại tập) (T. 31, tr. 822a) nói:
“Chư Phật Như
lai… khéo biết tánh bất tịnh của các chúng sanh, biết rồi bèn thuyết vô thường,
khổ, vô ngã, bất tịnh cho chúng sanh, làm cho chúng sanh đang đắm say thế gian ấy
sợ hãi, khiến họ chám thế gian, nhập vào trong pháp Thanh văn. Nhưng đức Phật
Như lai không xem đó là đủ, siêng năng không ngưng nghỉ, thứ đến thuyết về
không, vô tướng, vô nguyện cho chúng sanh, khiến chúng sanh ấy hiểu chút ít về
bánh xe pháp mà Phật đã thuyết. Nhưng đức Phật Như lai không xem đó là đủ,
siêng năng không ngưng nghỉ, thứ đến lại thuyết bánh xe pháp bất thối cho chúng
sanh, thứ đến thuyết hạnh ba-la-mật thanh tịnh, đó là không thấy 3 sự, khiến
chúng sanh đi vào cảnh giới của Như lai.”(a)
Đây lại là một
loại hình thuyết 3 thời giáo khác. Thuyết của 2 thời trước tương đồng với kinh Giải
thâm mật; thuyết thứ 3 ‘chuyển bánh xe pháp bất thối’, ý nghĩa có một số
thêm bớt. Pháp được thuyết ở thời thứ 3, kinh Đại phương đẳng Đại tập do
Đàm-mô-sấm (Dharmarakṣa) dịch, nói: “Phật lại thuyết pháp cho chúng sanh, khiến
họ không thoái lui tâm bồ-đề, biết pháp thuộc 3 đời, thành tựu đạo bồ-đề.”2 Kinh Đại ai, là bản dịch khác của
Trúc Pháp hộ (Dharmarakṣa) nói: “Tuyên bố đa dạng
về kinh và đạo, 3 nơi thanh tịnh, (nơi?) nào được gọi là Phật giới, để khiến
cho chúng sanh đi đến và nhập vào cảnh giới ấy.”3
Thời giáo thứ 3 của kinh Giải thâm mật, là sự không hiểu, hiểu sai lầm đối
với thời giáo thứ 2 – cái không không có tự tánh, nên trình bày rõ ràng thêm.
Thời giáo thứ 3 của kinh Đà-la-ni tự tại vương, là đối với thời giáo thứ
2 – không, vô tướng, vô nguyện, khiến cho ngộ nhập ‘cảnh giới Như lai’ (Phật giới)
tiến thêm một tầng nữa, cũng chính là nhập vào ‘Như lai tánh’ (Phật tánh). Nội
dung của thời giáo thứ 3, về tổng quát thì có bất đồng. Nhưng, kinh Giải
thâm mật đối với cái không không có tự tánh của tất cả các pháp, hiển
bày cái tánh không có tự tánh theo thắng nghĩa – tánh viên thành thật được hiển
bày bởi không có tự tánh; kinh Đà-la-ni tự tại vương, tánh Như lai vượt
qua cái không của pháp để tiến vào sự thanh tịnh: đây đều là pháp không dừng lại
ở không, mà còn dẫn vào cái chẳng phải không. Cho nên Đại thừa hậu kỳ, nhân vì
sự sai biệt giữa bộ phái, khu vực nên có 2 hệ lớn khác nhau, mà nơi từ ‘không’
tiến vào ‘bất không’ để nói, lại là nhất trí.
Mục 2. Chủng loại của
kinh Đại thừa sơ kỳ
Trong các kinh Đại thừa hiện còn, chúng đều là
kinh Đại thừa thuộc sơ kỳ chăng? Những học giả cận đại, đại để y cứ vào những
kinh được dịch ra vào tảo kỳ tại Trung Quốc để suy định. Dịch sư mà vào tảo kỳ
đến Trung Quốc truyền dịch kinh Đại thừa,
chủ yếu có: Chi-lâu-ca-sấm (Lokarakṣa) dịch kinh vào những năm giữa niên hiệu Quang Hòa, Trung Bình (178-189
A.D.) nhà Hậu Hán; Chi Khiêm dịch kinh vào đầu niên hiệu Hoàng Vũ (222-228), đến
giữa niên hiệu Kiến Hưng (252-253) nhà Ngô; Trúc Pháp Hộ (Dharmarakṣa), truyền
dịch từ niên hiệu Thái Thỉ năm thứ 2 đến niên hiệu Vĩnh Gia năm thứ 2 (266-307)
nhà Tần. Những kinh được dịch ra vào thời kỳ đầu thì không nhiều, nhưng những
kinh điển không có được dịch ra, không nhất định là vẫn chưa được thành lập. Vả
lại, thời đại dịch ra trễ một ít, nhưng có khả năng nội dung vẫn sớm hơn nhiều,
như những bản do Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva) dịch, so với những dịch phẩm của Trúc Pháp Hộ, ngược lại
thiếu một số kinh điển hậu kỳ. Dịch phẩm do Cưu-ma-la-thập dịch đã đại biểu cho
tông mà Ngài y cứ và sở học của Ngài, gần với luận của Long Thọ (Nāgārjuna). Luận Đại trí
độ của Long Thọ, truyền thuyết nói là có thể dịch thành 1000 quyển. Luận Thập
trụ tỳ-bà-sa chỉ được dịch ra 2 địa đầu tiên trong 10 địa, gồm có 17 quyển.
Một bộ lớn như vậy, có thể ít nhiều sự bổ sung của người đời sau, nhưng những
kinh điển mà 2 bộ luận này đã dẫn chứng, so với những dịch phẩm do Trúc Pháp Hộ
dịch, cũng thiếu một số kinh điển hậu kỳ. Sự thành lập của 2 bộ luận này, ước
chừng vào đầu thế kỷ 3 A.D.; so với thời đại dịch kinh của Trúc Pháp Hộ, ước chừng
sớm hơn 50 năm, Trúc Pháp Hộ đã có dịch qua luận của Long Thọ.1 Kinh Đại thừa mà luận Đại trí độ,
luận Thập trụ tỳ-bà-sa của Long Thọ đã dẫn chứng, nay khảo xét tổng quát
thêm, để thuyết minh các kinh Đại thừa đại biểu cho Đại thừa sơ kỳ, tồn tại vào
đầu thế kỷ 3 A.D.
1. Kinh Đại Bát-nhã: Luận Đại trí độ
nói: “Trung phẩm Bát-nhã ba-la-mật này có hai vạn hai nghìn (22.000) bài kệ; Đại
phẩm Bát-nhã có 10 vạn (100.000) bài kệ.”2
Văn của luận đã nói đến hai bộ kinh Bát-nhã: bộ có 22.000 bài kệ là bản
kinh mà luận Đại trí độ đã căn cứ vào, thông thường gọi nó là Đại phẩm
kinh Bát-nhã, tương đương với hội thứ 2 của kinh Đại Bát-nhã do Huyền
Trang dịch. Bộ gồm 100.000 bài kệ tương đương với hội đầu tiên của kinh Đại
Bát-nhã do Huyền Trang dịch. Luận lại nói: “Chủng loại và số quyển của kinh
Bát-nhã ba-la-mật có nhiều, có ít, có thượng – trung – hạ: Quang tán,
Phóng quang, Đạo hành.”3
Long Thọ đã nói đến 3 bộ gồm thượng – trung – hạ, và nêu ra tên kinh. Luận lại
nói: “Như Tiểu phẩm, Phóng Quang, Quang tán,”4 đây cũng là thuyết nói có 3 bộ. Kinh Tiểu
phẩm Bát-nhã của La-thập dịch là đồng bản với kinh Đạo hành Bát-nhã
của Chi-lâu-ca-sấm dịch vào đời Hán; tương đương với Hội thứ 5 của kinh Đại
Bát-nhã do Huyền Trang dịch. Kinh Phóng quang Bát-nhã gồm 20 quyển
là do Vô-la-xoa dịch vào đời Tây Tấn. Kinh Quang tán mà bản còn lại hiện
nay gồm 10 quyển là do Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn. Hai bộ này là tương đồng
với nhau, tương đương với Hội thứ 2 của kinh Đại Bát-nhã do Huyền Trang
dịch, cũng thuộc về loại Đại phẩm. Phóng quang và Quang tán,
hoặc gọi là Quang tán và Phóng quang, thêm vào Tiểu phẩm – Đạo
hành, chính là 3 bộ thượng – trung – hạ. Cho nên Phóng quang và Quang
tán chỉ là bản gồm 100.000 bài kệ và bản 22.000 bài kệ mà ở trên đã nói; chỉ
cho Phóng quang và Quang tán là thượng và trung – 2 bộ, chẳng qua
do người dịch mượn tên kinh đang có ở Trung Quốc để dùng mà thôi. Khi tạo luận,
kinh Bát-nhã đã có 3 bộ; bản gồm 100.000 bài kệ cũng đã được thành lập.
2. Kinh Bất khả tư nghì giải thoát:5 nội dung phù hợp với phẩm Nhập pháp giới
của kinh Hoa nghiêm, nhưng số mục do ưu-bà-di Âu-xá-na (Āsāna) nói cho
Tu-đạt-na (Sudhana – Thiện Tài),6 bản hiện
hành lập riêng thành phẩm A-tăng-kỳ.
3. Kinh Thập địa, kinh Tiệm bị:7 tương đương với phẩm Thập địa của kinh Hoa
nghiêm. Luận Thập trụ tỳ-bà-sa chính là bản giải thích rộng phần kệ
tụng của phẩm Thập địa.
4. Kinh Mật tích, kinh Mật tích kim
cang:8 có cùng bản với kinh Mật
tích kim cang lực sĩ do Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tấn, hiện nay biên tập thành
Hội thứ 3 của kinh Đại Bảo tích.
5. Kinh A-di-đà Phật:9 có cùng bản với kinh Vô lượng thanh
tịnh bình đẳng giác do Chi-lâu-ca-sấm dịch vào đời Hán. Bản do Bồ-đề-lưu-chí
(Bodhiruci) dịch vào đời Đường được biên tập thành Hội thứ 5 của kinh Đại Bảo tích.
6. Kinh Bảo đảnh:10 ‘Bảo đảnh’ là cách dịch khác của ‘Bảo
tích’; không ít nơi Long Thọ đã trích dẫn bộ kinh này, có cùng bản với kinh Đại
Bảo tích, v.v., đã mất tên người dịch. Phẩm Ca-diếp của kinh Bảo đảnh,
kinh Ca-diếp,11 là bộ
phận nói về 4 loại Sa-môn, v.v., của bộ kinh này. Hiện nay kinh được biên tập
thành phẩm 43 của kinh Đại Bảo tích, có tên là Phổ Minh Bồ-tát hội.
7. Kinh Vô tận ý, kinh A-si-mạt,
Vô tận ý Bồ-tát vấn:12 có
cùng bản với kinh A-si-mạt Bồ-tát do Trúc Pháp Hộ dịch. Luận ở trên nói:
“Trong kinh Bảo đảnh và trong phẩm Hiệp Phật pháp, Bồ-tát Vô tận ý, ở
trước mặt Phật, nói 65 loại thi-la ba-la-mật phần,13 có thể thấy bộ kinh này, vào cổ đại,
là thuộc về bộ loại của kinh Bảo tích. Kinh Vô tận ý do Trí
Nghiêm cùng Bảo Vân dịch vào đời Tống hiện nay được biên tập thành Phần 12 của
kinh Đại tập.
8. Kinh Thủ-lăng-nghiêm tam-muội:14 đã được nhiều lần phiên dịch vào thời
cổ đại, hiện nay còn lại kinh Thủ-lăng-nghiêm tam-muội do Cưu-ma-la-thập
dịch.
9. Kinh Tỳ-ma-la-cật:15 Ngô Chi-Khiêm dịch lần đầu, đề tên là
kinh Duy-ma-cật.
10. Kinh Ban-chu tam-muội, kinh Ban-chu:16
nội dung phù hợp với kinh Ban-chu do Chi-lâu-ca-sấm dịch vào đời Hán.
11. Kinh Pháp hoa:17 tương đồng với kinh Chánh Pháp hoa
do Trúc Pháp Hộ dịch.
12. Kinh Trì tâm, kinh Minh võng Bồ-tát,
kinh Võng minh Bồ-tát, kinh Minh võng:18 nội dung tương đồng với kinh Trì Phạm
Thiên vương sở vấn do Trúc Pháp Hộ dịch.
13. Kinh Chư Phật yếu tập:19 Văn-thù (Mañjuśrī) không thể làm một
nữ nhân ra khỏi tam-muội, phù hợp với kinh Chư Phật yếu tập do Trúc Pháp
Hộ dịch.
14. Kinh Hoa thủ:20 “Chư Phật trong 10 phương đều dùng hoa
cúng dường Phật Thích-ca văn, phù hợp với kinh Hoa thủ do Cưu-ma-la-thập
dịch.
15. Kinh Tam thập tam thiên phẩm:21 Phật nói với Mục-liên (Mahāmaudgalyāyana) rằng: chư Phật
hiện đang hóa độ ở các quốc độ trong vô lượng thế giới nhiều như số cát sông Hằng
ở 10 phương, “các chư Phật ấy đều là thân của Ta,” phù hợp với kinh Phật
thăng Đao-lợi thiên vị mẫu thuyết pháp.
16. Kinh Phóng bát:22 khi Di-lặc (Maitreya) thành Phật,
Văn-thù không biết sự nhấc chân lên hay đặt chân xuống [của Di-lặc], phù hợp với
kinh A-xà-thế vương do Chi-lâu-ca-sấm dịch.
17. Kinh Hiền kiếp:23 “84.000 các ba-la-mật,” phù hợp với
kinh Hiền kiếp (tam-muội) do Trúc Pháp Hộ dịch.
18. Kinh Đức nữ:24 Phật thuyết duyên pháp duyên khởi như
huyễn cho Đức nữ, phù hợp với kinh Phạm-chí nữ thủ ý do Trúc Pháp Hộ dịch.
19. Kinh Tỳ-na-bà-na vương:25 4 vô sở úy của Bồ-tát, trích ra từ
kinh Tự tại vương Bồ-tát do Cưu-ma-la-thập dịch.
20-21. Kinh Long vương vấn, kinh Long
vương:26 luận trên nói: “Long
vương A-na-bà-đạt-đa, long vương Sa-kiệt, v.v., đắc đạo Bồ-tát;” “long vương
Sa-gìà-độ là Bồ-tát ở trụ thứ 10, long vương A-na-bà-đạt-đa là Bồ-tát ở trụ thứ
7.”27 Đây hẳn phải là kinh Hải long vương,
kinh Hoằng đạo quảng hiển tam-muội – 2 kinh, do Trúc Pháp Hộ dịch.
22. Kinh Tịnh tỳ-ni, Tịnh tỳ-ni:28 Phật nói cho Ca-diếp (Mahākāśyapa), nội dung phù hợp
kinh Văn-thù sư-lợi tịnh luật do Trúc Pháp Hộ dịch.
23. Kinh Bảo Nguyệt đồng tử sở vấn:29 niệm chư Phật trong 10 phương, phù hợp
với kinh Đại thừa Bảo Nguyệt đồng tử sở vấn do Thi Hộ dịch vào đời Triệu
Tống.
24. Phẩm Trừ tội nghiệp của kinh Tam chi;
“Phật tự thuyết sám hối pháp;” “Phật tự thuyết khuyến thỉnh pháp;” “Tùy hỉ và hồi
hướng, 2 việc này Phật cũng tự thuyết:”30
văn cú đã dẫn phù hợp với kinh Bồ-tát tạng do Tăng-già-bà-la (Saṃghavarman) dịch vào đời
Lương.
25. Kinh Như lai trí ấn:31 Phật thuyết rằng người đã phát tâm bồ-đề
mà có tội đáng đọa lạc thì vẫn thọ quả báo nhẹ nhõm, phù hợp với kinh Trí ấn
được dịch vào đời Tống, mất tên người dịch.
26. Kinh Chư Phật bổn khởi, kinh Bổn
khởi, kinh Bổn khởi nhân duyên, kinh Bồ-tát bổn khởi:32 “Vị Bồ-tát sống trong loài người, chán
ghét già bệnh chết, xuất gia, đắc a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề,” là cùng loại
với kinh Tu hành bổn khởi, v.v., do Trúc Đại Lực cùng Khương Mãnh Tường
dịch vào đời Hán.
Hai mươi sáu bộ kinh Đại thừa đã liệt kê ở
trên, được luận của Long Thọ trích dẫn, vả lại còn nêu tên kinh rõ ràng. Ngoài
ra, luận vẫn còn dẫn lời các kinh khác, tuy không có nêu ra tên kinh, nhưng nội
dung quả thật có thể tra cứu được, như:
27. Kinh Pháp kính: luận Thập trụ tỳ-bà-sa
dẫn “Phật bảo Uất-già-la” một đoạn lớn; và pháp đầu-đà, a-lan-nhã,33 nội dung phù hợp với kinh Pháp kính
do An Huyền dịch vào đời Hán. Bản dịch khác, tương truyền là kinh Uất-già
trưởng giả vấn do Khương Tăng-khải (Saṃghavarman) dịch vào đời Tào Ngụy, nay được biên tập thành Hội thứ 19
của kinh Đại Bảo tích.
28. Kinh Chư pháp vô hành: “bổn duyên của
Văn-thù sư-lợi” – vào đời quá khứ, nhân vì phỉ báng nghĩa lý sâu xa của Đại thừa,
cho nên chịu cái khổ của địa ngục trong vô lượng ngàn vạn ức năm, nhưng lại
nhân đó mà “đời đời đắc lợi căn trí huệ.”34
Kinh này trích ra từ kinh Chư pháp vô hành do Cưu-ma-la-thập dịch.
29. Kinh Bất tất định nhập định nhập ấn:
luận Đại trí độ nói: “Có 3 hạng Bồ-tát: hạng lợi căn, tâm kiên cố, trước
khi chưa phát tâm đã dài lâu tập hợp vô lượng phước đức và trí huệ; người này gặp
Phật, nghe pháp Đại thừa này, phát tâm a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, tức thời
thực hành 6 ba-la-mật, nhập vào địa vị Bồ-tát, đắc a-bệ-bạt-trí.” Luận lại nói:
“Như người đi xa, hoặc có xe dê để đi, hoặc có xe ngựa để đi, hoặc có thần
thông để đi.”35 Người nương thần thông
để đi chính là người lợi căn (3 hạng người). Kinh Bất tất định nhập định nhập
ấn nói hoàn toàn phù hợp với điều mà luận này đã nói. Kinh Bất tất định
nhập định nhập ấn do Cù-đàm-bát-nhã-lưu-chí dịch ra lần đầu vào đời Nguyên
Ngụy.
30. Kinh Đại thọ Khẩn-na-la vương sở vấn:
Đại Ca-diếp nghe tiếng đàn cầm của vua Khẩn-na-la xong, bèn đứng dậy nhảy múa một
cách không thể tự chủ được.36 Sự kiện
này, văn của luận đã nhiều lần nói đến, là trích ra từ kinh Đại thọ Khẩn-na-la
vương sở vấn. Bản dịch lần đầu của Chi-lâu-ca-sấm gọi là kinh Độn-chân-đà-la
sở vấn Như lai tam-muội.
31. Kinh A-súc Phật quốc: kinh Bát-nhã
đã nói đến Phật A-súc (Akṣobhya), luận Đại trí độ cũng nói: “Lúc Phật A-súc mới
phát tâm, thực hành hạnh thanh tịnh, không ngừng không nghỉ, cho đến đắc a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề,”37 là dẫn trực tiếp kinh A-súc Phật quốc.
Kinh A-súc Phật quốc là do Chi-lâu-ca-sấm dịch đầu tiên vào đời Hán.
32. Kinh Đại phương quảng Phật hoa nghiêm,
phẩm Hoa tạng thế giới: luận Đại trí độ nói: “Tam thiên đại thiên thế giới
gọi là một thế giới, cùng khởi một lần, cùng diệt một lần; các thế giới nhiều
như số các sông Hằng trong 10 phương như vậy là một thế giới của Phật. Một thế
giới của Phật có số lượng thế giới như số cát sông Hằng như vậy là một biển thế
giới của Phật. Biển thế giới của Phật có số lượng thế giới nhiều như cát sông Hằng
trong mười phương như vậy là (một) loại thế giới của Phật. Loại thế giới như vậy
có vô lượng trong 10 phương.”38 Phân chia
thế giới thành một thế giới, biển thế giới, loại thế giới của Phật, là phù hợp
với điều mà phẩm Hoa nghiêm thế giới đã nói.
33. Kinh Ly cấu thí nữ: luận Thập trụ
tỳ-bà-sa dẫn một đoạn rằng “kinh Đại trí, nhằm lúc người nữ tên Tỳ-ma-la-đạt-đa
hỏi, Phật nhân đó nói cho Mục-kiền-liên,”39
phù hợp với kinh Ly cấu thí nữ do Trúc Pháp Hộ dịch. Bản do Nhiếp Đạo
Chân dịch vào đời Tấn gọi là kinh Vô cấu thí Bồ-tát phân biệt ứng biện,
được biên tập thành Hội thứ 33 của kinh Đại Bảo tích.
34. Kinh Trì nhân Bồ-tát: luận Đại
trí độ nói “Bồ-tát ma-ha-tát thực hành sự ở trong sự nghĩ nhớ về 4 pháp [tứ
niệm xử]” một đoạn kinh lớn,40 tương
đồng với Phẩm thứ 9 - Ba mươi bảy phẩm, của kinh Trì nhân Bồ-tát do Trúc
Pháp Hộ dịch.
Những kinh Đại thừa mà luận của Long Thọ trích
dẫn, có kinh đã nêu ra tên kinh, cũng đã nói đến nội dung, nhưng vẫn chưa tra cứu
ra, có kinh tương đồng với một số bộ được dịch qua Hán văn, hoặc có kinh không
được truyền và dịch qua, như:
35. Kinh Quyết định vương Đại thừa:
“xưng tán công đức của Pháp sư, và nghi thức thuyết pháp;” thuyết về nhiều loại
4 pháp cho A-nan. Lại nữa, trong kinh Quyết định vương, Phật thuyết cho
A-nan rằng, tỳ-kheo ở nơi a-lan-nhã thì phải trụ nơi bốn loại 4 pháp.”41
36. Kinh Tịnh đức: thuyết về thi-la của
Bồ-tát cho lực sỹ Tịnh Đức.42
37. Kinh Phú-lâu-na-di-đề-lệ-da-ni tử:
“Phật bảo Phú-lâu-na: giả sử tam thiên đại thiên thế giới ở vào thời kiếp thiêu
hoặc sanh trở lại, thì ta vẫn thường ở trong núi (Kỳ-xà-quật) này. Do tất cả
chúng sanh bị kiết sử trói buộc nên không thấy được công đức của Phật, vì vậy
không thấy được Ta.”43
Những kinh Đại thừa thuộc 3 loại gồm 37 bộ ở
trên là những kinh được luận của Long Thọ trích dẫn, có thể biết được nội dung
của chúng. Vẫn còn một số kinh có nội dung không thể biết chính xác, như: 1)
kinh Vân, 2) kinh Đại vân, 3) kinh Pháp vân, “mỗi kinh có
10 vạn (10.000) bài kệ.”44 Trong ấy,
kinh Đại vân, có khả năng chính là kinh Đại phương đẳng Đại vân
do Đàm-mô-sấm (Dharmarakṣa) dịch vào đời Bắc Lương. Kinh Đại vân, hiện còn 6
quyển, hoặc gọi là kinh Đại phương đẳng Vô tưởng, là một bộ phận của
kinh Đại vân. 4) Kinh Lục ba-la-mật,45 cùng loại với kinh Lục độ tập
do Khương Tăng Hội dịch vào đời Ngô. 5) Kinh Đại bi,46 không biết là có tương đồng với kinh Đại
bi do Na-liên-đề-da-xá (Narendrayaśa) dịch vào đời Cao Tề hay không? 6) Kinh Phương tiện,
7) kinh Di-lặc vấn, 8) kinh A-tu-la vương vấn, kinh Đoạn nhất
thiết chúng sanh nghi:47 đề của
kinh chỉ chung chung, lại không có trình bày nội dung, cho nên không thể xác định
được. Ngoài ra có kinh Trợ đạo,48
là phần kệ tụng của luận Bồ-đề tư lương của Long Thọ, không phải là kinh
Đại thừa.
Những kinh Đại thừa được dịch vào đời Hán, Ngụy,
Ngô, Tây Tấn, đối với người dịch, có kinh không tránh khỏi do nghe truyền lại
nên sai sự thật. Các học giả Nhật Bản cận đại đã có khảo chính qua không ít
kinh, nhưng có một số ý kiến vẫn không thể nhất trí với nhau. Trong sách này,
nó không thành vấn đề quan trọng, bởi vì người dịch có thể có vấn đề, mà thuộc
về những bản dịch xa xưa, thì lại không biết sai. Bây giờ căn cứ những bản dịch
xưa do Xuất Tam tạng ký tập truyền lại làm chủ để xem xét các kinh Đại
thừa được Long Thọ trích dẫn.49 Những
kinh được dịch vào đời Hán, Ngụy, Ngô, tổng cộng có 13 bộ tương đồng: kinh Đâu-suất,
kinh Bát-nhã, kinh Thủ-lăng-nghiêm, kinh Ban-chu tam-muội,
kinh Uất-chân-đà-la, kinh A-xà-thế vương, kinh Bảo tích (kinh
Di viết ma-ni bảo), kinh A-súc Phật quốc, kinh A-di-đà,
kinh Pháp kính, kinh Bổn khởi, kinh Duy-ma-cật, kinh Như
lai huệ ấn. Vào đời Tây Tấn, Trúc Pháp Hộ lại dịch ra 15 bộ: kinh Hiền
kiếp, kinh Chánh Pháp hoa, kinh Mật tích, kinh Trì tâm,
kinh Thập địa (kinh Tiệm bị nhất thiết trí đức), kinh Hải long
vương, kinh Hoằng đạo quảng hiển tam-muội, kinh Trì nhân Bồ-tát,
kinh A-si-mạt, kinh Chư Phật yếu tập, kinh Phật thăng Đao-lợi
thiên vị mẫu thuyết pháp, kinh Ly cấu thí nữ, kinh Văn-thù sư-lợi
tịnh luật, kinh Phạm-chí nữ thủ ý, kinh Xá-lợi-phất hối quá (kinh
Bồ-tát tạng, bản dịch lần đầu tiên). Thêm vào kinh Hoa thủ, kinh Tự
tại vương, kinh Chư pháp vô hành, kinh La-ma-già (bộ phận được
dịch xưa của kinh Bất khả tư nghì) được dịch ra tại Tam Tần [Trường An],
tổng cộng gồm 32 bộ. Có thể nói, 37 bộ kinh Đại thừa mà Long Thọ đã trích dẫn,
trừ ngoài 3 bộ không thể khảo định ra, còn lại dường như đều được dịch qua tiếng
Hán vậy!
Nghiên cứu Phật giáo Đại thừa sơ kỳ, sách này dùng
những kinh được Long Thọ trích dẫn làm đối tượng chủ yếu, nhưng những kinh được
luận của Long Thọ trích dẫn, không thể toàn bộ là kinh Đại thừa sơ kỳ. Từ những
bản dịch hiện nay còn ở nước ta [Trung Quốc] để xem xét, thì kinh Đại thừa được
dịch vào đời Hán, Ngụy, Ngô, trừ đi những kinh được dịch lặp lại, còn có 14 bộ:
1.
Minh độ ngũ thập hiệu kế
kinh
|
2 quyển
|
Hán, An Thế-cao dịch50
|
2.
Văn-thù vấn Bồ-tát thự kinh
|
1 quyển
|
Hán, Chi-lâu-ca-sấm dịch
|
3.
Nội tạng bách bảo kinh
|
1 quyển
|
Hán, Chi-lâu-ca-sấm dịch
|
4.
Thành cụ quang minh định ý kinh
|
1 quyển
|
Hán, Chi-diệu dịch
|
5.
Bồ-tát bổn nghiệp kinh
|
1 quyển
|
Ngô, Chi-khiêm dịch
|
6.
Tu-lại kinh51
|
1 quyển
|
|
7.
Vô lượng môn vi mật trì kinh
|
1 quyển
|
|
8.
Tư-a-muội kinh
|
1 quyển
|
|
9.
Si-ma-kiệt kinh
|
1 quyển
|
|
10.
Thất nữ kinh
|
1 quyển
|
|
11.
Lão nữ nhân kinh
|
1 quyển
|
|
12.
Bột kinh sao
|
1 quyển
|
|
13.
Long thí nữ kinh
|
1 quyển
|
|
14.
Nguyệt minh Bồ-tát kinh
|
1 quyển
|
Kinh do Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn, về pháp nghĩa thì gần với
kinh Đại thừa sơ kỳ, nhưng Long Thọ không có trích dẫn, tổng cộng có 35 bộ,
như:
1.
A-duy-việt-trí giá kinh
|
4 quyển
|
2.
Văn-thù sư-lợi nghiêm tịnh kinh
|
2 quyển
|
3.
Văn-thù sư-lợi hiện bảo tạng kinh
|
2quyển
|
4.
Đẳng tập chúng đức tam-muội kinh
|
3 quyển
|
5.
Đại tịnh pháp môn kinh
|
1 quyển
|
6.
Tu-chân thiên tử kinh
|
2 quyển
|
7.
Huyễn sĩ nhân hiền kinh
|
1 quyển
|
8.
Ma nghịch kinh
|
1 quyển
|
9.
Tế chư phương đẳng học
kinh
|
1 quyển
|
10. Đức Quang thái tử kinh
|
1 quyển
|
11. Quyết định tổng trì kinh
|
1 quyển
|
12. Ngũ thập duyên thân hành kinh
|
1 quyển
|
13. Tu-ma-đề Bồ-tát kinh
|
1 quyển
|
14. Phương đẳng Nê-hoàn kinh
|
2 quyển
|
15. Đại thiện quyền kinh
|
2 quyển
|
16. Vô ngôn đồng tử kinh
|
1 quyển
|
17. Đại phương đẳng Đảnh vương kinh
|
1 quyển
|
18. Văn-thù sư-lợi hối quá kinh
|
1 quyển
|
19.
Diệt thập phương minh kinh
|
1 quyển
|
20.
Vô tư nghị hài đồng kinh
|
1 quyển
|
21.
Bảo Võng đồng tử kinh
|
1 quyển
|
22.
Thuận quyền phương tiện kinh
|
2 quyển
|
23.
Phổ môn phẩm kinh
|
1 quyển
|
24.
Như huyễn tam-muội kinh
|
2 quyển
|
25.
Di-lặc bổn nguyện kinh
|
1 quyển
|
26.
Hổng quang kinh
|
1 quyển
|
27.
Tâm minh kinh
|
1 quyển
|
28.
Vô sở hi vọng kinh
|
1 quyển
|
29.
Độc chứng tự thệ tam-muội kinh
|
1 quyển
|
30.
Vô cực bảo tam-muội kinh
|
1 quyển
|
31.
A-thuật-đạt kinh
|
1 quyển
|
32. Tam phẩm tu hành kinh52
|
1 quyển
|
33. Xá-đầu-gián thái tử nhị thập bát tú kinh
|
1 quyển
|
34. Quang thế âm Đại thế chí thụ quyết kinh
|
1 quyển
|
35. Siêu nhật minh tam-muội kinh
|
2 quyển
|
Những kinh được dịch ra vào đời Đông Tấn, mà lẽ
ra nên quy vào Đại thừa sơ kỳ, có:
1. Bồ-tát tạng kinh (Phú-lâu-na hỏi)
|
3 quyển
|
Tần, Cưu-ma-la-thập dịch
|
2. Kim cang bát-nhã ba-la-mật kinh
|
1 quyển
|
Tần, Cưu-ma-la-thập dịch
|
3. Vô lượng thọ kinh
|
1 quyển
|
Tần, Cưu-ma-la-thập dịch
|
4. Diễn đạo tục nghiệp kinh
|
1 quyển
|
Mất tên người dịch
|
5. Trưởng giả tử biện ý kinh
|
1 quyển
|
|
6. Nội ngoại lục ba-la-mật kinh
|
1 quyển
|
|
7. Bồ-tát đạo thọ tam-muội kinh
|
1 quyển
|
|
8. Hắc thị Phạm-chí kinh
|
1 quyển
|
|
9. Bồ-tát thệ kinh
|
1 quyển
|
Ở trên đã tổng kết, luận của Long Thọ dẫn 37 bộ
kinh Đại thừa; 14 bộ dịch vào đời Hán, Ngụy, Ngô; 35 bộ do Trúc Pháp Hộ dịch; 9
bộ do La-thập và những người dịch bị mất tên. Trong những kinh Đại thừa hiện
nay còn thuộc Hán dịch, trừ đi những bản dịch lặp, đại biểu cho kinh Đại thừa
sơ kỳ, bao quát rất nhiều bộ kinh ngắn bên trong nó, cũng không nhiều quá 90 bộ.
Những bộ cần phải nói thêm đến, có: 1) Những kinh do Trúc Pháp Hộ dịch, như
kinh Độ thế phẩm, kinh Đẳng Mục Bồ-tát sở vấn, kinh Như lai
hưng hiển kinh, đều là 1 phẩm của bộ lớn là kinh Hoa nghiêm. Kinh Đại
ai, kinh Bảo nữ sở vấn, kinh Bảo kết là 1 phần của kinh Đại
tập. Trong luận Cứu cánh Nhất thừa Bảo tánh đã trích dẫn kinh Đại
ai, kinh Bảo nữ, kinh Như lai hưng hiển để trình bày Như lai
tạng, Phật tánh. Pháp Cự - người đồng thời với Trúc Pháp Hộ, đã dịch ra kinh Đại
phương đẳng Như lai tạng,53 có thể
thấy vào thời đại ấy, kinh Đại thừa hậu kỳ đã bắt đầu truyền đến. 2) Chi-khiêm
từng dịch ra kinh Đại Bát-nê-hoàn, 2 quyển, Tăng Hựu khảo đính rằng: “Kinh
Đại Bát-nê-hoàn do Chi-khiêm dịch ấy, giống phần lớn với Phương đẳng
Nê-hoàn;” “kinh Phương đẳng Nê-hoàn (Trúc Pháp Hộ, Thích Pháp Hiển):
cùng ở bên một bản kinh mà hai người dịch ra khác nhau.”54 Đại Bát-nê-hoàn của Chi-khiêm
là bản dịch khác của kinh Phương đẳng Nê-hoàn, cho nên Lịch đại Tam bảo
kỉ nói: “Bản này lược đi phần Tự của bản lớn, phẩm Ai thán chia thành 2 quyển,
3 trang sau có khác chút ít,”55 là
không đáng tin! 3) Kinh Đại vân do Đàm-mô-sấm dịch ra, nói đến: “Như lai
là thường - lạc – ngã - tịnh,” “tất cả chúng sanh đều có Phật tánh;” “sau khi
Ta niết-bàn 1.200 năm, ở Nam Thiên-trúc có vị đại quốc vương tên là
Sa-đa-bà-ha-na;” “như vậy tỳ-kheo Chúng sanh lạc kiến:”56 tương đương với thời đại của Long Thọ.
Luận của Long Thọ đã nói đến kinh Đại vân, dường như sớm hơn một chút,
có thể là người sau thêm thắt vào luận của Long Thọ. Từ sự truyền đến của kinh
Đại thừa hậu kỳ, có thể suy ra thấy sự hưng khởi của kinh Đại thừa hậu kỳ (ở
phương Nam), ước chừng vào khoảng 230-250 A.D.
1 Đạo hành bát-nhã ba-la-mật kinh 6,
T. 8, tr. 455a.
(a) Tham khảo: Skt. yadetattvayedānīṃ śrutam, naitadbuddha-vacanam / kavikṛtaṃ
kāvyam etat / yatpunaridamahaṃ bhāṣe, etadbuddhabhāṣitam, etadbuddhavacanamiti
/ // Aṣṭasāhasrikā prajñāpāramitā // Nguyên Hán là: 餘外事耳, Skt. kavikṛtaṃ kāvyam; đối chiếu với: 《摩訶般若鈔經》卷4〈8 阿惟越致品〉:「若莫復說是語非佛所說,是皆他餘外道之造作,今我所語是佛所說」(CBETA, T08, no. 226, p. 527, b5-6)
2 Ban-chu tam muội kinh, q. thượng,
T. 13, tr. 907a-b.
(b) Đề-bà không lên ngồi trên tòa cao là
vì theo phong tục tại Ấn độ, khi giảng kinh, v.v., thì ngồi trên tọa cụ chứ
không dùng ghế, v.v., cao làm pháp tòa.
1 Đại thừa trang nghiêm kinh luận 1,
T. 31, tr. 591a.
(a) Skt: samapravṛtteḥ samakālaṃ ca śrāvakayānena mahāyānasya
pravṛtter upalabhyate na paścād iti katham asyābuddhavacanatvaṃ vijñāyate. Mahāyānasūtrālaṃkāraḥ.
2 Diệu pháp liên hoa kinh văn cú,
phần thượng của q. 1, T. 34, 4a.
3 Hoa nghiêm kinh thám huyền ký 2,
T. 35, tr. 126b. Hoa nghiêm kinh sớ sao huyền đám 8, Tục 8, tr. 315a.
4 Tam luận huyền nghĩa kiểm u tập 5,
T. 70, tr. 459b, 460c, 465b.
5 Tạp tạng mà Luật Tứ phần nói,
cũng có kinh Phương đẳng, như quyển 54 đã đề cập. T. 22, tr. 968b.
6 Bình Xuyên Chương, Sơ kỳ Đại thừa
Phật giáo chi nghiên cứu, tr. 27-58.
7 Bình Xuyên Chương, Sơ kỳ Đại thừa
Phật giáo chi nghiên cứu, sđd, tr. 12-16, 31-32.
8 Bình Xuyên Chương, Sơ kỳ Đại thừa Phật giáo chi nghiên cứu,
sđd, tr. 17-18.
1 Dị bộ tông luân luận, T. 49,
tr. 17a, nói: Hóa địa bộ chấp rằng, “thực hiện việc cúng dường túy-đỗ-ba [tháp]
rất thịnh soạn, [nhưng] kết quả đạt được rất ít.”
2 Bình Xuyên Chương, Sơ kỳ Đại thừa
Phật giáo chi nghiên cứu, tr. 611-615.
3 Thành thật luận 2, T. 32, tr.
253c.
1 Thâm mật giải thoát kinh 2,
T. 16, tr. 673c.
(a) Skt: evam eva kulaputra tathāgato ’py apariśuddhaṃ sattvadhātuṃ
viditvānitya duḥkhānātmāśubhodvegakathayā saṃsārābhiratān sattvān udvejayati |
ārye ca dharmavina ye ’vatārayati | na ca tāvan mātreṇa tathāgato vīryaṃ
praśrambhayati | tataḥ paścāc chūnyānimittāpraṇihitakathayā tathāgatanetrīm
avabodhayati | na ca tāvan mātreṇa tathāgato vīryaṃ praśrambhayati | tataḥ
paścād avivartyadharmacakrakathayā trimaṇḍalapariśuddhikathayā ca tathāgataviṣaye
tān sattvān avatārayati || Ratnagotravibhāgo
mahāyānottaratantraśāstram
2 Đại phương đẳng đại tập kinh 3,
T. 13, tr. 21c.
3 Đại ai kinh 6, T. 13, tr.
439c.
1 Lâm Ốc Hữu Thứ Lang (Hayashiya Tomojirō), Phật
giáo cập Phật giáo sử chi nghiên cứu, tr. 291-300.
2 Đại trí độ luận 100, T.
25, tr. 756a.
3 Đại trí độ luận 67, T.
25, tr. 529b.
4 Đại trí độ luận 79, T.
25, tr. 620a.
5 Đại trí độ luận 73, T.
25, tr. 576c. Từ đây trở về sau đều dẫn một đoạn làm ví dụ.
6 Đại trí độ luận 5, T. 25,
tr. 94b-95b.
7 Đại trí độ luận 49, T. 25,
tr. 411a; và, q. 29, tr. 272a.
8 Đại trí độ luận 1, T. 25,
tr. 59a; và, q. 10, tr. 127c-128a.
9 Đại trí độ luận 9, T. 25,
tr. 127a.
10 Đại trí độ luận 28, T. 25,
tr. 266c.
11 Thập trụ tỳ-bà-sa luận 17, T. 26,
tr. 118c; và q. 16, tr. 110c.
12 Đại trí độ luận 27, T.
25, tr. 257b; và, q. 53, tr. 442a; và, q. 20, tr. 211c.
13 Thập trụ tỳ-bà-sa
luận 16, T. 26, tr. 109c.
14 Đại trí độ luận
10, T. 25, tr. 134b.
15 Đại trí độ luận
9, T. 25, tr. 122a.
16 Đại trí độ luận
29, T. 25, tr. 276a; và, q. 33, tr. 306a.
17 Đại trí độ luận 7, T. 25, tr. 109b.
18 Đại trí độ luận 81, T. 25, tr. 631a; và q. 20, tr. 211b; và, q. 22, tr. 227b;
và, q. 28, tr. 267a.
19 Đại trí độ luận 10, T. 25, tr. 128b.
20 Đại trí độ luận 10, T. 25, tr. 129b.
21 Đại trí độ luận 32, T. 25, tr. 302b-c.
22 Đại trí độ luận
38, T. 25, tr. 340c.
23 Đại trí độ luận 29, T. 25, tr. 271a.
24 Đại trí độ luận 6, T. 25, tr. 101c-102a.
25 Đại trí độ luận 5, T. 25, tr. 101a.
26 Đại trí độ luận 100, T. 25, tr. 756b; và q. 51, tr. 424b.
27 Đại trí độ luận 39, T. 25, tr. 344a; và, q. 4, tr. 92b.
28 Thập trụ tỳ-bà-sa
luận 2, T. 26, tr. 28a ;
và, q. 15, tr. 102b.
29 Thập trụ tỳ-bà-sa
luận 5, T. 26, tr. 41b.
30 Thập trụ tỳ-bà-sa
luận 6, T. 26, tr. 47b ;
và, q. 5, tr. 45b-c; và, q. 5, tr. 46a; và, q. 5, tr. 46b-c.
31 Thập trụ tỳ-bà-sa
luận 6, T. 26, tr. 48c.
32 Đại trí độ luận 100, T. 25, tr. 756b ; và, q. 46, tr. 394b; và, q. 33,
tr. 308a; và, q. 38, tr. 342a.
33 Thập trụ tỳ-bà-sa
luận 7-8, T. 26, tr. 57b-63a; và,
q. 16, tr. 111b-115a.
34 Đại trí độ luận 6, T. 25,
tr. 107a-108a.
35 Đại trí độ luận 38, T. 25,
tr. 342c.
36 Đại trí độ luận 10, T. 25,
tr. 135c.
37 Đại trí độ luận 79, T. 25,
tr. 615b.
38 Đại trí độ luận 50, T. 25,
tr. 418c.
39 Thập trụ tỳ-bà-sa
luận 15, T. 26, tr. 102b.
40 Đại trí độ luận 19, T. 25,
tr. 203b-204a.
41 Thập trụ tỳ-bà-sa
luận 7, T. 26, tr. 53c-54a ;
và, q. 16, tr. 114a-b.
42 Thập trụ tỳ-bà-sa
luận 17, T. 26, tr. 119b.
43 Đại trí độ luận 3, T. 25, tr. 79b.
44 Đại trí độ luận 33, T. 25, tr. 308a ; và, q. 46, tr. 394b; và, q. 100,
tr. 756b.
45 Đại trí độ luận 33, T. 25, tr. 308a; và, q. 46, tr. 394b.
46 Đại trí độ luận 100, T. 25, tr. 756b.
47 Đại trí độ luận 100, T. 25, tr. 756b; và, q. 46, tr. 394b.
48 Thập trụ tỳ-bà-sa
luận 1, T. 26, tr. 25b.
49 Từ đây về sau tên
kinh có từ ‘Phật thuyết’ đều tỉnh lược hết.
50 Bản kinh này hiện
được biên tập thành Phần 13 của kinh Đại phương đẳng Đại tập, hoặc nhầm
cho là “Cao Tề Thiên-trúc Tam tạng Na-liên-đề-da-xá dịch.”
51 Bản dịch của
Chi-khiêm đã bị thất lạc. Trong những bản dịch của Trúc Pháp Hộ có kinh Tu-thâm.
52 Quyển 2 của Xuất
Tam tạng ký tập nói: “Kinh Tam phẩm tu hành, 1 quyển (An công [ngài Đạo
An] nói: Gần đây có người kết hợp vào chung trong kinh Tu hành.)” Tức là
3 phẩm sau cùng của kinh Tu hành đạo địa hiện đang còn – phẩm Đệ tử (tam
phẩm tu hành), phẩm Duyên giác, phẩm Bồ-tát, là bản kinh mang thể tài của luận.
53 Xuất Tam tạng ký tập 2, T. 55,
tr. 9c-10a.
54 Xuất Tam tạng ký tập 2, T. 55,
tr. 14a; và, q. 2, tr. 15a.
55 Lịch đại Tam bảo kỷ 5, T. 49,
tr. 57a.
56 Đại phương đẳng Vô tưởng kinh 1, T. 12, tr. 1081a, 1082c; và, q. 5, tr. 1099c-1100b.