CHƯƠNG 4. KHUYNH HƯỚNG ĐỐI LẬP GIỮA LUẬT CHẾ VÀ GIÁO NỘI

CHƯƠNG 4. KHUYNH HƯỚNG ĐỐI LẬP GIỮA LUẬT CHẾ VÀ GIÁO NỘI

Tiết 1. Luật chế nhằm y pháp nhiếp Tăng

Mục 1. Nguyên tắc và lý tưởng của Tăng chế

Sự sùng kính di thể, di vật, di tích của đức Thích tôn, sự lưu truyền Bổn sanh, Thí dụ, Nhân duyên, những điều này đủ để thành nhân tố hưng khởi Phật Pháp Đại thừa, là hoạt động bên trong Phật Pháp – Phật giáo Nguyên thỉ và Phật giáo Bộ phái. Phật giáo thuộc Nguyên thỉ, thuộc Bộ phái – nội dung vốn có của Phật Pháp, vấn đề cố hữu của nội bộ, đối với sự hưng khởi của Phật Pháp Đại thừa, đương nhiên có mối quan hệ mật thiết và trọng yếu giữa chúng, cần phải dành cho nó sự chú ý cẩn thận! Ở đây, trước hết bắt đầu từ (một bộ phận) Luật đại biểu cho Phật giáo Nguyên thỉ để trình bày.
Sự thành tựu Chánh giác, chuyển Pháp luân của đức Thích tôn chỉ là sự chứng đắc và khai thị về Pháp, Pháp là toàn bộ Phật Pháp. Đức Thích tôn là người xuất gia, thuyết pháp giáo hóa mọi người, nên có ‘người theo Phật xuất gia’. Khi có nhiều người theo Phật xuất gia thì không thể không có tổ chức, vì vậy ‘căn cứ và Pháp để quản lý Tăng’ nên có chế độ Tăng-già (Saṃgha). ‘Căn cứ và Pháp để quản lý Tăng’ là nói tổ hợp toàn bộ chế độ của Tăng chúng, là căn cứ vào Pháp; căn cứ vào Pháp nên chế độ được thành lập, nhằm có sự trợ giúp cho việc tu chứng Pháp, có sự trợ giúp cho việc tăng trưởng rộng lớn Phật Pháp. Tăng-già và chế độ Tăng-già như vậy, không chỉ là có liên quan đến sự tu chứng của thân tâm, mà còn có liên quan đến đại chúng, sự tồn tại của tổ chức tôn giáo ở nhân gian. Nói đến chế độ quản lý Tăng, thì nội dung không đồng nhất, mà chủ yếu là chế độ của đoàn thể. 1) Có nhiều người xuất gia tu hành có những hành vi mất đạo đức, hoặc truy cầu đời sống kinh tế quá mức, điều này không chỉ làm chướng ngại sự tu chứng về Pháp của cá nhân, mà cũng làm chướng ngại sự hòa hợp thanh tịnh của Tăng-già, nên chế lập Học xứ (Śikṣāpada, cựu dịch là Giới). Học xứ gồm từng điều khoản một, tập hợp lại thành Ba-la-đề-mộc-xoa (Prātimokṣa), là những điều mà người xuất gia phải giữ gìn không được vi phạm. 2) Nhằm mở rộng Phật Pháp ở nhân gian nên thành lập sự thọ pháp Cụ túc (Upasaṃpanna-dharma), pháp Bố-tát (Poṣadha-dharma), pháp An cư (Vārṣika-dharma ), pháp Tự tứ (Pravāraṇā-dharma), pháp Y ca-thi-na (Kaṭhina-dharma), v.v., là chế riêng của Tăng-già. 3) Khi đã thành lập tự viện, đã có nhiều người xuất gia thì có nhiều sự việc của Tăng, có pháp xử lý các việc tranh chấp trong Tăng-già. 4) Cùng thuộc về người xuất gia trong Phật Pháp, yêu cầu sự phù hợp và thống nhất thuộc phương diện hành vi (các pháp oai nghi), như các qui chế về việc đi, đứng, ngồi, nằm, mặc y, đi trên đường, khất thực, thọ dụng ăn uống, v.v. Tất cả qui chế này, do vì Tăng-già xuất gia ngày dần mở rộng, càng ngày càng nhiều, cũng càng tăng thêm tánh quan trọng của nó. Những pháp chế này được gọi là Luật, đạt đến địa vị ngang hàng tương đối với Pháp. Phạm ngữ là Vinaya, dịch âm là Tỳ-ni hoặc Tỳ-nại-da, dịch nghĩa là Luật hoặc Điều phục. Thường thấy được trong kinh sự tương đối giữa Pháp và Luật, như ‘Pháp Luật’; ‘Pháp Tỳ-nại-da’; ‘Pháp này Tỳ-ni này, phi Pháp phi Tỳ-ni,’ v.v. Pháp và Luật, ban đầu là 2 mặt của cùng một nội dung. Pháp – tu chứng về Thánh đạo, nhất định là lìa tội ác, lìa sự trói buộc để điều phục thân và tâm (Tỳ-ni nhằm đoạn phiền não là ý nghĩa gốc của Tỳ-ni), cho nên còn gọi là Tỳ-ni. Vì vậy tôi từng tỉ dụ là: Pháp giống như sự hiển lộ ra của ánh sáng, Tỳ-ni giống như sự tiêu trừ bóng tối, hai thứ vốn không tách rời. Cho đến khi Tăng-già ngày càng phát triển, dù là hoạt động thân và tâm của cá nhân, hoặc mình và người khác cùng chung sống thuộc Tăng-già, nếu như không hòa hợp vui vẻ, không thanh tịnh, thì không tương ưng với Pháp nên có trở ngại cho sự tu chứng. Nếu như lấy pháp chế để chế ngự thân và tâm, tiêu trừ nhân tố của sự không hòa hợp vui vẻ, không thanh tịnh, thì tự mình có thể ‘tùy theo Pháp, hành theo Pháp’ để hướng đến chánh pháp. Cho nên những quy chế của Tăng-già này đã có tánh chất quan trọng ngang hàng với Pháp. Người xưa nói rằng Tỳ-ni có 5 nghĩa: “Tỳ-ni có 5 nghĩa: 1) sám hối; 2) tùy thuận; 3) diệt; 4) đoạn; 5) xả.”1 Sám hối là đã phạm những lỗi hoặc nhẹ hay nặng, thì sám hối theo đúng như pháp, là căn cứ vào học xứ của Ba-la-đề-mộc-xoa để nói. Tùy thuận là tuân theo quy chế của Tăng-già – thọ giới, an cư, v.v., căn cứ vào Pháp mà làm. Hai loại này còn được gọi là ‘phạm Tỳ-ni’. Diệt là đối với các việc tranh chấp thuộc Tăng-già, căn cứ vào Pháp xử lý để diệt trừ, chính là 7 Tỳ-ni gồm hiện tiền Tỳ-ni, v.v. Đoạn là đối trị và tiêu diệt đối với phiền não, còn được gọi là ‘đoạn phiền não Tỳ-ni’. Xả là đối trị ‘bỏ không được làm nữa’ và ‘bỏ [kiến] chấp’ của tội Tăng tàn. Theo lời người xưa để xét, thì Tỳ-ni là nhằm điều phục sự sai trái của tư tưởng hoặc hành vi, điều phục sự không tuân theo quy chế Tăng-già hoặc sự đấu tranh giữa mình với người khác. Tỳ-ni là căn cứ vào Pháp mà các quy chế được đưa ra, cuối cùng hình thành phần trọng yếu ngang hàng với Pháp.
Sự phân hóa giữa Pháp và Luật đã bắt đầu vào thời đại đức Thích tôn còn tại thế. Vì phân hóa nên Pháp và Luật ngang hàng, rõ ràng đã có đặc tính bất đồng: Pháp là thuộc giáo thuyết, Luật là thuộc chế lập; Pháp trọng về sự tu chứng của cá nhân, Luật trọng về sự hòa hợp, an lạc, thanh tịnh; Pháp trọng về đức tánh nội tâm, Luật trọng về khuôn mẫu của thân và lời nói; Pháp là thuộc về luật của chính mình, thuộc chuyển hóa đạo đức; Luật là thuộc về luật của kẻ khác, phương pháp xử lý. Từ sự tu hành giải thoát để nói, thì Luật là không nhất định phải có; như sự tu chứng của đức Thích tôn chỉ là Pháp mà thôi. Nhưng từ sự tồn tại lâu dài của Phật Pháp ở nhân gian để nói, thì Luật là có tánh tất yếu đặc thù của nó. Luật Tăng-kỳ, luật Đồng diệp, luật Ngũ phần, luật Tứ phần, v.v., đều có truyền thuyết giống nhau:2 đức Thích tôn bảo Xá-lợi-phất (Śāriputra): Phạm hạnh của Tỳ-bà-thi (Vipaśyin), Thi-khí (Śikhi), Tỳ-xá-phù (Viśvabhū) – 3 vị Phật quá khứ, không tồn tại lâu dài; Phạm hạnh của Câu-lưu-tôn (Krakucchanda), Câu-na-hàm-mâu-ni (Kanakamuni), Ca-diếp (Kāśyapa) – 3 vị Phật quá khứ, tồn tại lâu dài. Nguyên nhân vì: chuyên tâm vào sự yểm ly, chuyên tâm vào sự chứng đắc, không có thuyết pháp cho đệ tử rộng rãi, không chế lập học xứ cho đệ tử, không thành lập Ba-la-đề-mộc-xoa; như vậy, Phật và các đại đệ tử nhập niết-bàn rồi, vì hàng đệ tử thuộc các tộc họ khác nhau, nên Phạm hạnh sẽ rã diệt nhanh chóng, không thể tồn tại lâu dài. Ngược lại, nếu như thuyết rộng rãi kinh pháp cho hàng đệ tử, chế lập học xứ cho hàng đệ tử, thành lập việc thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa; vì vậy su khi Phật và các đại đệ tử đã nhập niết-bàn rồi, hàng đệ tử thuộc các dòng họ khác nhau, Phạm hạnh vẫn có thể tồn tại lâu dài, đây là truyền thuyết về nhân duyên chế giới. ‘Chánh Pháp tồn tại lâu dài’ hoặc ‘Phạm hạnh tồn tại lâu dài’ là lý tưởng cao nhất của việc thuyết pháp độ sanh của đức Thích tôn. Phải thực hiện lý tưởng vĩ đại này mà chẳng chế lập học xứ, chẳng thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa thì không thể được. Trong Luật nói: “Có 12 sự lợi ích nên chư Phật Như lai chế giới cho hàng đệ tử, thành lập việc thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa.”3 Nội dung của 10 lợi ích này, các bộ Luật có sự thêm bớt chút ít nhưng đều lấy ‘Chánh Pháp tồn tại lâu dài’ hoặc ‘Phạm hạnh tồn tại lâu dài’ làm lý tưởng tối cao, nay trình bày lại sơ lược. Mười thứ nghĩa lợi có thể quy nạp thành 6 mục: 1) Nghĩa hòa hợp: luật Tăng-kỳ và luật Thập tụng lập 2 cú ‘nhiếp Tăng’ và ‘cực nhiếp Tăng’; luật Tứ phần, v.v., kết hợp thành 1 cú. Hòa hợp Tăng-già, trở thành chủ lực của việc đoàn kết hòa hợp của Tăng-già chính là Học xứ và thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa. Chính như sự hòa hợp của quốc gia, cái trở thành nơi mà vạn ức dân chúng hướng tâm lực đến là Hiến pháp và Pháp luật được công bố. 2) Nghĩa an lạc: luật Tăng-kỳ lập lập nên cú ‘Tăng an lạc’; luật Tứ phần, v.v., lập riêng ‘hỉ’ và ‘lạc’ thành 2 cú; luật Ngũ phần thiếu. Đại chúng căn cứ vào Học xứ để sống, thì có thể làm cho đại chúng hỉ lạc. Căn bản Thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự nói: “Khiến người khác hoan hỉ, yêu thương kính trọng, cùng giúp đỡ lẫn nhau, hòa hợp giữ gìn, không có các sai trái, tranh chấp, một long cùng làm việc, như sự kết hợp của nước và sữa.”4 Điều này đã đủ giải thích rằng, hòa hợp mới có thể an lạc, an lạc mới có thể hòa hợp; mà ở đây đều là căn cứ vào Học xứ và thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa rồi sau mới đạt thành. 3) Nghĩa thanh tịnh: trong Tăng-già hòa hợp, nếu như có người không biết tàm quý nên vi phạm, thì dùng uy lực của Tăng-già, căn cứ vào điều khoản mà Học xứ đã quy định mà áp dụng để phân xử, khiến người ấy bày tỏ lỗi lầm để thanh tịnh trở lại. Người có tàm quí thì tinh tấn hướng về đạo, ở trong đại chúng, cũng có thể tu hành để an lạc thân tâm. Tăng-già giống như cái lò rèn lớn, sắt phế liệu cũng tốt, quặng sắt cũng tốt, đều tôi luyện để thành tinh thép hoàn toàn thuần tịnh. Điều này giống như tổ chức tốt các thành viên của một đoàn thể, kỷ cương nghiêm túc. 4) Nghĩa ngoại hóa: Tăng đoàn hòa hợp vui vẻ và thanh tịnh như vậy, tự nhiên có khả năng làm cho mọi người phát sanh tín tâm, tín tâm tăng trưởng thì Phật Pháp có thể càng phổ cập đến xã hội. 5) Nghĩa nội chứng: ở trong Tăng-già hòa hợp vui vẻ và thanh tịnh như vậy, hàng tỳ-kheo càng có thể tu hành tinh tấn, đắc được sự lìa khỏi phiền não để chứng Thánh giải thoát. 6) Nghĩa lý tưởng cao nhất: đức Như lai ‘căn cứ vào Pháp để quản lý Tăng’, lấy ‘Chánh Pháp tồn tại lâu dài’ hoặc ‘Phạm hạnh tồn tại lâu dài’ làm lý tưởng. Chỉ có Tăng đoàn hòa hợp vui vẻ và thanh tịnh mới có thể giáo hóa mọi người để tín ngưỡng được phổ biến, chứng đắc bên trong để Hiền Thánh không bị đoạn dứt. Lý tưởng lớn ‘Chánh Pháp tồn tại lâu dài’ mới có thể thực hiện ở nhân gian. Nguyện đại bi cứu đời của đức Thích tôn, căn cứ theo Phật giáo Nguyên thỉ để nói, thì Phật Pháp không thể cậy nhờ vào sự tu chứng cá nhân của Phật và hàng đệ tử, mà chỉ có nhờ vào Tăng-già hòa hợp vui vẻ và thanh tịnh. Đây là ý nghĩa sở tại của việc chế luật, giá trị sở tại của Tỳ-nại-da, đã hiện ra rõ bi nguyện to lớn và trí huệ to lớn của đức Phật!

Mục 2. Sự biên tập và dị nghị về Luật điển

Khi đức Thích tôn còn tại thế, Pháp và Tỳ-nại-da đã trải qua sự phân hóa; trong cuộc kết tập, thì kết tập thành 2 bộ là Pháp (Kinh) và Tỳ-nại-da (Luật). Kết tập (saṃgīti) là qua sự cùng thẩm định của đại chúng hòa hợp, xác định là do Phật thuyết, là do Phật chế; đem văn cú nhất định biên tập thành thứ tự bộ loại để thuận tiện truyền tụng. Vì sao phải kết tập? Từ khi đức Thích tôn niết-bàn về sau, người xuất gia thuộc các địa phương khác nhau, các dòng họ khác nhau, đối với Pháp nghĩa và Luật chế rộng lớn làm sao mới có thể giữ gìn cho thống nhất, là một việc lớn trước mắt của hàng đệ tử xuất gia. Chính điều này nên cần phải kết tập, thì Pháp và Luật mới có một chuẩn mực nhất định. Truyền thuyết nói đại hội kết tập lần thứ nhất được cử hành tại thành Vương Xá (Rājagṛha), hẳn phải là điều hợp lý đáng tin tưởng. Bấy giờ, do vị Ma-ha Ca-diếp (Mahākāśyapa) cao niên lãnh đạo; Luật do ngài Ưu-ba-li (Upāli) chủ trì việc tập hợp tụng ra, Pháp do ngài A-nan (Ānanda) chủ trì tập hợp tụng ra, trở thành cuộc kết tập đầu tiên mà giới Phật giáo đã công nhận.
Luật do ngài Ưu-ba-li kết tập chủ yếu là Ba-la-đề-mộc-xoa được gọi là Giới kinh. Khi đệ tử xuất gia đã có làm gì không hợp pháp, đức Thích tôn mới chế lập Học xứ (kết giới), có văn cú nhất định; hàng đệ tử truyền tụng và ghi nhớ, khi đã tái phạm thì phải chịu sự phân xử. Đây là sự chế lập dần dần, vào những năm Phật đã cao tuổi, có truyền thuyết nói có ‘hơn 150 giới’, như quyển 46 của luận A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa (T. 27, tr. 238a) nói:
“[Có bí-sô con của dòng họ] Phật-lật-thị [Vṛji] đã xuất gia trong Phật Pháp vào lúc đức Như lai còn tại thế, lúc ấy Phật đã chế hơn 150 học xứ,… thuyết Biệt giải thoát kinh.”
Kinh văn nói chế hơn 150 giới là rút ra từ phẩm 3 pháp của kinh Tăng chi bộ.1 Luận Du-già sư địa cũng nói: “Căn cứ 5 phạm tụ và phương pháp trừ 5 phạm tụ để thuyết hơn 150 học xứ.”2 Hơn 150 học xứ là căn cứ vào mức nhẹ hay nặng của điều bị phạm mà theo thứ tự để chia thành 5 bộ, chính là ba-la-di (pārājikā), Tăng-già bà-thi-sa (saṃghāvaśeṣā), ba-dật-đề (pāyattika), ba-la-đề-đề-xá-ni (pratideśanīya), chúng học (saṃbahula-śaikṣa). Trong ba-dật-đề đã có bao hàm ni-tát-kỳ ba-dật-đề (naiḥsargikā-pāyattika) và ba-dật-đề - 2 loại. Đây là cách tổ chức nguyên thỉ của Giới kinh. Khi Ưu-ba-li kết tập, hẳn phải có điều được bổ sung, khảo đính, có thể là 191 giới, tức 4 ba-la-di, 13 Tăng-già bà-thi-sa, 30 ni-tát-kỳ ba-dật-đề, 92 ba-dật-đề, 4 ba-la-đề-đề-xá-ni, 50 pháp chúng học. Đến khi Phật nhập diệt được 100 năm (1 thế kỷ sau), vào lúc cử hành cuộc kết tập lần thứ 2 tại thành Tỳ-xá-li (Vaiśālī), thì 2 pháp bất định (aniyata) – điều khoản bổ sung cho 3 bộ trước; 7 pháp diệt tránh (adhikaraṇaśamatha) – biện pháp để Tăng-già xử lý các việc tranh chấp, hẳn đã được phụ thêm vào Giới kinh, nên trở thành 252 giới (hoặc tổng hợp rồi giảm bớt 2 giới).3 Đây là chỗ trọng điểm của cuộc kết tập nguyên thỉ vậy! Văn cú của học xứ thì ngắn gọn, được tôn xưng là Kinh (Tu-đa-la - Sūtra). Ngoài ra, trong Luật điển của cuộc kết tập nguyên thỉ còn có phần kệ tụng được gọi là ‘các bài kệ tùy thuận Pháp’, không trái ngược với Giới pháp. Lúc kết tập, những quy chế có trong Tăng đoàn như các chế độ thọ giới, an cư, bố-tát, v.v.; các quy định về y, ăn uống, sống, v.v.; các biện pháp phân xử những người phạm tội, đều là luật bất thành văn, mà thường ngày thực hành trong nội bộ Tăng đoàn. Đối với những điều này, người xưa tùy theo sự loại mà lập thành hạng mục rõ ràng, đem sự việc thuộc mỗi mục (bao quát định nghĩa của tên gọi các việc thuộc Tăng), biên tập thành kệ tụng (đây là Kỳ-dạ của Luật). Những ‘bài kệ tùy thuận Pháp’ này là nằm bên ngoài Giới kinh, cương mục của tất cả chế độ Tăng-già được gọi là Ma-đắc-lặc-già (Māṭrkā), có nghĩa là ‘mẫu - mẹ’, ‘mẫu đề’. Căn cứ vào tiêu mục này để giải thích sơ lược, trở thành nguồn gốc của những phần được gọi là Kiền-độ (Khandhaka), Sự (Vastu), Pháp (Dharma) ở trong quảng Luật.4
Thời kỳ từ cuộc kết tập lần thứ 2 (trong vòng 1 thế kỷ sau Phật nhập diệt) đến thời kỳ phân hóa thành bộ phái, Ba-la-đề-mộc-xoa kinh đã có sự ‘phân biệt’ (gọi là Kinh phân biệt, hoặc Ba-la-đề-mộc-xoa phân biệt, hoặc Tỳ-ni phân biệt): đối với giới gồm từng điều từng điều, phân biệt nhân duyên chế giới, phân biệt văn cú của Giới kinh, phân biệt phạm hay không phạm. Phần chủ yếu của nó được Quảng luật của các bộ phái đều công nhận. Bấy giờ, ‘những bài kệ tùy thuận Pháp’ đã có phân loại và biên tập theo bộ phận. Về sau các bộ phái trọng Luật lại phân loại và biên tập, chỉnh biên thêm bước nữa, trở thành các loại Kiền-độ (hoặc gọi là Pháp, hoặc gọi là Sự).
Kết tập Luật là việc tất yếu, nhưng lúc kết tập nguyên thỉ, hang tỳ-kheo trình bày lại những ý kiến khác nhau. Trên đại hội, ngài A-nan truyền đạt lại lời di mệnh của đức Thích tôn: “Có thể bỏ những giới nhỏ nhặt,”5 đã dẫn đến phát sanh sự quở trách của Ma-ha Ca-diếp, Ưu-ba-li, v.v. Theo truyền thuyết của luật Thập tụng, v.v., không phải nói bỏ là bỏ, mà là “Nếu Tăng một lòng hòa hợp bàn bạc thì bỏ đi những giới nhỏ nhặt.”6 Giới nhỏ nhặt, chủ yếu là những chi tiết nhỏ liên quan đến  như y phục, ăn uống, sống, thuốc men, v.v. Những qui chế này có liên quan đến đời sống văn hóa và kinh tế của xã hội đương thời. Nếu như thời gian và địa điểm đã thay đổi thì đời sống văn hóa và kinh tế cũng sẽ thay đổi theo, vì vậy do Tăng chúng cùng chung bàn bạc, quyết định xả bỏ những điều không phù hợp (cũng phải tăng thêm những qui chế mới); thật sự là sự chọn lựa rất sang suốt của đức Thế tôn. Nhưng với những vị trưởng lão xem trọng cả những giới nhỏ nhặt như Ưu-ba-li, v.v., ngược lại xem việc này là sự phá hoại Giới pháp, nên cho chúng chẳng phải là làm xấu. Kết quả, Đại Ca-diếp ra lệnh ngừng thảo luận rồi quyết định rằng: “Nếu như điều nào không do Phật chế thì không được chế bừa; nếu điều nào Phật đã chế thì không được vi phạm. Nếu điều gì Phật đã dạy thì phải kính cẩn học theo!”7 Từ đó, qui chế của Tăng được xem như “đặt nó vào bốn biển thì nó đều là tiêu chuẩn, áp dụng nó đến muôn đời thì nó đáng được thực hành theo,” là pháp ‘thường’ vĩnh hằng bất biến. Nhưng trên thực tế thì không thể không có sự biến động, đại để tăng thêm một số qui định để có thể thông thoáng hơn, chẳng qua không nói là ‘Phật thuyết’ thì không được. Khi bộ phái đã phân hóa, Luật chế cũng khác nhau ít nhiều, mỗi bộ đều xem [bộ Luật mà bộ phái mình áp dụng] là do Phật chế, khiến mọi người không biết theo đâu mới đúng. Hệ trọng Luật do ngài Ưu-ba-li đại biểu đã phát triển thành Thượng tọa bộ (Sthavira), đối với Giới luật là ‘nặng hay nhẹ đều giữ bình đẳng’. Xem trọng Luật chế là đúng, nhưng trước thế nào sau làm theo y như vậy thì khó thích ứng, đối với Luật chế thì chưa chắc có lợi! Ngoài ra, hệ trọng Pháp phát triển thành Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika), khởi đầu tuy tiếp nhận Luật chế đã được kết tập, nhưng thái độ rất là thông thoáng, như quyển 32 của luật Ma-ha Tăng-kỳ (T. 22, tr. 492a) nói: “Đối với 5 pháp tịnh, nếu đúng như Pháp, đúng như Luật thì hoan hỉ tuân theo; nếu không đúng như Pháp, không đúng như Luật thì nên bác bỏ. Năm pháp đó là những gì? 1) chế hạn tịnh; 2) phương pháp tịnh; 3) giới hành tịnh; 4) trưởng lão tịnh; 5) phong tục tịnh.”
‘Tịnh’ là không có lỗi lầm nên có thể thọ trì. Năm loại tịnh mà Đại chúng bộ truyền, ý nghĩa không hoàn toàn rõ rang. Nhưng giới hành tịnh và trưởng lão tịnh là một vị nào đó có sự thanh tịnh về giới hạnh, một vị trưởng lão nào đó, họ từng trì như vậy, mọi người cũng có thể trì theo như vậy. Ở đây ít nhiều lấy hành vi của hang đệ tử Phật làm tiêu chuẩn, nên không nhất định là rút ra từ Phật chế. Phương pháp tịnh là quốc độ tịnh, rõ rang là nhân nơi địa phương mà chế ra để thích nghi. Kê-dận-bộ (Kukkuṭika) – tách ra từ Đại chúng bộ: “Tùy nghi che than, tùy nghi ăn uống, tùy nghi nơi ở, chóng đoạn phiền não.”8 Đem tất cả chế độ y, ăn, ở, v.v., đều tùy nghi tất cả, không trọng những giới nhỏ nhặt mà đạt đến tinh thần ‘căn cứ vào Pháp để quản lý Tăng’ nhẹ nhàng. Những người thuộc Phật giáo Đại thừa sơ kỳ không ra ngoài sự kế thừa học phong này nhưng đạt đến đỉnh điểm, cho nên những người cực đoan của Phật giáo Đại thừa sơ kỳ không tránh khỏi bị hiềm nghi là chê bai và phá hủy Giới pháp vậy!






1 Tỳ-ni mẫu kinh 7, T. 24, tr. 842a.
2 Ma-ha Tăng-kỳ luật 1, T. 22, tr. 227b. Đồng diệp luật, Kinh phân biệt, Nam truyền 1, tr. 11-14. Di-sa-tắc bộ Hòa-ê Ngũ phần luật 1, T. 22, tr. 1b-c. Tứ phần luật 1, T. 22, tr. 569a-c.
3 Ma-ha Tăng-kỳ luật 1, T. 22, tr. 228c. Đồng diệp luật, Kinh phân biệt, Nam truyền 1, tr. 32. Di-sa-tắc bộ Hòa-ê Ngũ phần luật 1, T. 22, tr. 3b-c. Tứ phần luật 1, T. 22, tr. 570c. Thập tụng luật 1, T. 23, tr. 1c. Căn bản Thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da 1, T. 23, tr. 629b.
4 Căn bản Thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự 35, T. 24, tr. 384a.
1 Tăng chi bộ, phẩm 3 pháp, Nam truyền 17, tr. 377, 379-384.
2 Du-già sư địa luận 85, T. 30, tr. 772c.
3 Xin xem tác phẩm của tôi: Nguyên thỉ Phật giáo Thánh điển chi tập thành, tr. 144-149, 177-179.
4 Xin xem tác phẩm của tôi: Nguyên thỉ Phật giáo Thánh điển chi tập thành, tr. 287-292.
5 Ma-ha Tăng-kỳ luật 32, T. 22, tr. 492c. Đồng diệp luật, Tiểu phẩm, Nam truyền 4, tr. 430-431. Di-sa-tắc bộ Hòa-ê Ngũ phần luật 30, T. 22, tr. 191b. Tứ phần luật 54, T. 22, tr. 967b. Thập tụng luật 60, T. 23, tr. 449b. Căn bản Thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự 39, T. 24, tr. 405b.
6 Thập tụng luật 60, T. 23, tr. 449b. Tỳ-ni mẫu kinh 4, T. 24, tr. 818b.
7 Di-sa-tắc bộ Hòa-ê Ngũ phần luật 30, T. 22, tr. 191c. Các bộ luật của hệ Thượng tọa cũng tương đồng như vậy.
8 Tam luận huyền nghĩa, T. 45, tr. 9a.

CHƯƠNG 3. SỰ LƯU TRUYỀN VỀ BỔN SANH, THÍ DỤ, NHÂN DUYÊN (TT)

Tiết 3. Sự khai triển về Phật-đà quan

Mục 1. Phật trong 3 đời và Phật ở 10 phương

Trong ‘truyền thuyết’, sự phát đạt của tư tưởng Bồ-tát là lấy Bổn sanh về đời quá khứ của đức Thích tôn làm chủ. Sự khai triển tư tưởng có liên quan đến đức Phật-đà, chủ yếu là Thí dụ và Nhân duyên. Như chuyện của 7 đức Phật là ‘Đại thí dụ’ – kinh Đại bổn. Chuyện đức Thích tôn niết-bàn là Niết-bàn thí dụ.1 Đức Di-lặc (Maitreya) thành Phật trong đời vị lai là kinh Thuyết bổn thuộc kinh Trung A-hàm. Nam truyền cũng có Phật thí dụ. Truyện Phật phát triển ra từ trong Tỳ-ni, như kinh Tu hành bổn khởi, kinh Thái tử Thụy Ứng bổn khởi, bổn khởi (hoặc ‘bổn’ hoặc ‘bổn mạt’) chính là dịch nghĩa của nhân duyên. Cho nên vấn đề có liên quan đến Phật, chủ yếu thuộc về Thí dụ và Nhân duyên trong 12 phần giáo.
Liên quan đến sự khai triển và diễn hóa về tư tưởng của đức Phật-đà, vẫn phải bắt đầu nói từ đức Thích tôn. Đức Thích tôn là vị Phật thuộc nhân gian hiện thực, có tồn tại chân thực trên mặt lịch sử. Phật giáo không phải là Thần giáo, Phật không phải là vị thần duy nhất, mà là từ dung tôn xưng bậc tu hành đã thành tựu, bậc đại giác viên mãn rốt ráo. Cho nên Phật không phải là duy nhất, nên tất nhiên là rất nhiều (đạt đến kết luận mọi người đều có thể thành Phật). Trước khi đức Thích tôn thành Phật, sớm đã có rất nhiều chư Phật xuất thế, đây là niềm tin chung của Phật Pháp. Phật là bậc viên mãn rốt ráo, đã đạt đến cảnh giới ‘không thiếu không dư’, không thể tăng thêm chút ít, hoặc giảm đi chút ít (có thể giảm một ít thì không viên mãn), cho nên ‘Phật với Phật cùng một con đường’, ‘Phật với Phật đều bình đẳng’; trên mặt giải thích, có lẽ nói khác nhau chút ít, nhưng rốt cục vẫn là Phật với Phật đều bình đẳng, không có hơn thua. Trên mặt ý nghĩa của sự giác ngộ, thì cũng giống như vậy, đức Thích tôn quán duyên khởi nên thành tựu Đẳng chánh giác, 6 vị Phật trước đức Thích tôn – tổng cộng 7 vị Phật, đều là quán duyên khởi nên thành tựu Đẳng chánh giác.2 Bảy vị Phật giống như đức Thích tôn là: Thí dụ về đức Tỳ-bà-thi (Vipaśyin), đức Thi-khí (Śikhi), đức Tỳ-xá-phù (Viśvabhū), đức Câu-lâu-tôn (Krakucchanda), đức Câu-na-hàm-mâu-ni (Kanakamuni), đức Ca-diếp (Kāśyapa) và đức Thích-ca-mâu-ni (Śākyamuni), trong cuộc kết tập lần thứ 2 đã biên tập thành 4 kinh A-hàm, mà Thí dụ này đã sớm được thành lập nên được biên tập vào kinh Trường A-hàm. Sự thành lập của thuyết 7 vị Phật là rất sớm, năm 1895, tại phía nam thôn Nigliya, đã phát hiện ra trụ đá do vua A-dục (Aśoka) dựng, văn khắc trên đó nói: “Vua Thiên Ái Hỉ Kiến sau khi quán đảnh 14 năm, xây lớn thêm tháp của Phật Câu-na-hàm-mâu-ni. Sauk hi quán đảnh 20 năm, đích thân đến cúng dường.”3 Điều này đã chứng thực sự thành lập của thuyết về chư Phật quá khứ quả thật là rất sớm. Thuyết 7 vị Phật là truyền thuyết chung của Tảo kỳ. Kinh Phật bổn hành tập của Pháp tạng bộ (Dharmaguptaka) truyền thuyết nói có 14 vị Phật;4 kinh Phật chủng tánh của Đồng diệp bộ () truyền thuyết nói có 24 vị Phật quá khứ,5 là tăng thêm gấp đôi thuyết 7 vị Phật. Phật quá khứ, trong giới Phật giáo, có truyền thuyết bắt đầu càng nhiều.
Về trước thì có Phật quá khứ, về sau thì có Phật vị lai. Thuyết đức Di-lặc thành Phật trong thời vị lai, cũng được thành lập trước cuộc kết tập lần thứ 2. Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin) biên tập vào kinh Trung A-hàm;6 hệ Phân biệt thuyết (Vibhajyavādin) biên tập vào kinh Trường A-hàm.7 Di-lặc là thanh niên, vào thời đại đức Thích tôn, đến từ phương Nam, xin xem phẩm Nghĩa, phẩm Ba-la-diên, đây là tập kệ tụng tương đối sớm. Vào cuộc kết tập lần thứ 1, tuy không có biên tập vào Tu-đa-la và Kỳ-dạ, nhưng trong phần Ký thuyết đã trích dẫn và giải thích thêm, đây là căn cứ vào kinh Tạp A-hàm nên có thể hiểu rõ.8 Trong phẩm Ba-la-diên, Đế-tu-di-lặc (Tissa-metteyya) và A-kì-đa (Ajita) là 2 người; kinh Tạp A-hàm trong Hán dịch cũng tương đồng. Kinh Thuyết bổn của kinh Trung A-hàm thuật lại thời điểm đức Di-lặc thành Phật, đồng thời nói đến việc A-kì-đa làm vị Luân vương,9 cũng là 2 người khác nhau. Nhưng trong pháp Đại thừa, Di-lặc là họ, A-dật-đa là tên, chỉ là 1 người, thì không phù hợp với truyền thuyết của Thượng tọa bộ (Sthavira), có khả năng đây là truyền thuyết của Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika). Sự xuất hiện của đức Phật Di-lặc trong đời vị lai chỉ là giải thích về đức Phật trước và đức Phật sau – Phật và Phật nối tiếp nhau. Do vì đức Thích tôn nhập niết-bàn, không tương quan với thế gian nữa, chỉ có Pháp và xá-lợi của Phật lưu lại nơi thế gian để cứu độ chúng sanh. Đối với cảm giác trống vắng khởi lên do sự hoài niệm về đức Thích tôn, trong hang tín giả thông thường, đây là điều không dễ khắc phục. Cho nên đức Di-lặc thuộc thời đại đức Thích tôn, đời vị lai sẽ thành Phật tại thế giới này, nên hiện tại sanh lên trời Đâu-suất (Tuṣita), mặc dầu xa xôi nhưng rốt cục vẫn là hiện tại, cùng một thế giới, vẫn có thể tương quan đến hàng tín chúng. Bộ phận những người tu học Phật pháp không thể hiểu rõ về ý nghĩa của Pháp thì có truyền thuyết lên trời Đâu-suất hỏi ngài Di-lặc. Tại Trung Quốc, Thích Đạo An phát nguyện sanh lên Đâu-suất gặp ngài Di-lặc,10 chính là dựa vào niềm tin sanh lên Đâu-suất tham vấn đức Di-lặc đương thời mà có. Sự truyền lại thuộc tín ngưỡng này là kinh Duy-viết tạp nạn do Ngô Chi Khiêm (222 A.D. – 253 A.D.) dịch. Bồ-tát Hòa-tu-mật (Vasumitra) và vị La-hán vấn đáp, vị La-hán không trả lời được, bèn nhập định lên Đâu-suất hỏi đức Di-lặc.11 Tín ngưỡng này, tôi tin là đã có vào thời đại Bộ phái (kinh Đại thừa luôn ca ngợi là trời Đâu-suất). Vào thế kỷ 5 A.D., vẫn còn truyền lại truyền thuyết lên Đâu-suất hỏi ngài Di-lặc, như:12
“Phật-đà-bạt-đà-la… trong chốc lát đến Đâu-suất, rất cung kính đức Di-lặc.”
“La-hán… chính là ngài (Trí) Nghiêm nhập định, đi đến cung Đâu-suất hỏi ngài Di-lặc.”
“Kế-tân… Đạt-ma từng nhập định đi đến trời Đâu-suất, thọ giới Bồ-tát từ ngài Di-lặc.”
Vào thế kỷ 4 A.D., truyền thuyết nói ngài Vô Trước (Asaṅga) lên Đâu-suất hỏi ngài Di-lặc, truyền ra luận Du-già sư địa, cũng là một tín ngưỡng. Bồ-tát Di-lặc hiện đang ở trời Đâu-suất, ít nhiều đã bổ sung cho mối quan hệ mật thiết giữa Phật (đức Di-lặc là Phật vị lai) và tín chúng. Nhưng gặp Bồ-tát Di-lặc, chủ yếu là vấn đáp về ý nghĩa của Pháp. Có khả năng thích ứng với tín chúng thông thường như kinh Phật thuyết quán Di-lặc Bồ-tát thượng sanh Đâu-suất-đà thiên do Thư Cừ Kinh Thanh dịch. Lấy quy y, trì giới, bố thí làm phước, gọi đó là pháp thực hành, cầu sanh lên trời Đâu-suất, có thể nghe pháp tu hành từ đức Di-lặc. Vào đời tương lai, đức Di-lặc hạ sanh, cũng theo Phật đến sanh tại nhân gian, trở thành một môn dễ hành đạo.
Chư Phật trong 3 đời, dù cho có truyền ra bao nhiêu vị Phật quá khứ, đối với Phật Pháp vốn có, sẽ không dẫn đến phát sanh dị nghị gì. Nhưng thuyết chủ trương trong 10 thế giới có Phật xuất thế trong thời hiện tại – nhiều Phật đồng thời xuất thế, dẫn đến sự ảnh hưởng đối với giới Phật giáo là ra ngoài sức tưởng tượng. Như kinh Đa giới thuộc quyển 7 của kinh Trung A-hàm (T. 1, tr. 723c-724a) nói:
“Nếu có 2 vị Như lai xuất hiện trong cùng trong một thế giới, thì chuyện này không thể xảy ra.”
Hai vị Phật không thể xuất hiện đồng thời, là điều khẳng định, chắc chắn không thể có ngoại lệ. Trung bộTăng chi bộ cũng có trình bày giống như thế.13 Hàng Luận sư của hệ Thượng tọa bộ đã kế thừa giáo thuyết rõ ràng và chính xác này, cho rằng khi đức Phật Thích-ca xuất thế (các vị Phật khác cũng như thế) thì không có vị Phật thứ 2 nào. Nhưng trong Đại chúng bộ lại có ý kiến bất đồng. Luận sự phê bình thuyết ‘trong 10 phương thế giới đều có Phật’, Giác Âm (Buddhaghoṣa) giải thích đây là kiến chấp của Đại chúng bộ.14 Thuyết ‘trong hiện tại ở 10 phương đều có Phật’ của hệ Đại chúng bộ, nay kiểm tra lại:
Thuyết xuất thế bộ: phương Đông có Phật Mṛgapatiskandha, Siṃhahanu, Lokaguru, Jñānadvaja, Sundara. Phương Nam có Phật Anihata, Cārunetra. Phương Tây có Phật Ambara. Phương Bắc có Phật Pūrṇacandra.15 
Đại chúng bộ: “đức Thanh Mục Như lai, v.v., vì hóa thành Bồ-tát nên ở tại trời Quang Âm.”16
Đại chúng bộ (phái ngọn): “phương Đông có 7 hằng sa cõi Phật, có vị Phật hiệu Kỳ Quang Như lai là bậc Chí chân Chánh đẳng giác xuất hiện nơi cõi đó.”17
Chư Phật ở phương khác trong thời hiện tại, là thuyết của hệ Đại chúng bộ. Kinh Phật bổn hành tập của Pháp tạng bộ (Dharmaguptaka) vẫn nói là đức Phật trước và đức Phật sau nối tiếp nhau, không có nói là nhiều Phật đồng thời xuất hiện, nhưng về sau những người có tín ngưỡng, khả năng đã chuyển thành trong 10 phương thế giới có nhiều Phật cùng xuất hiện, như quyển hạ của luận Nhập Đại thừa (T. 32, tr. 43c-44a) nói:
“Đàm-mô-cúc-đa cũng nói bài kệ như vầy: … chư Thế tôn ở phương trên và phương dưới, ở các phương và 4 hướng, Pháp thân và xá-lợi, kính lễ tháp chư Phật. Phương Đông và phương Bắc, Lưỡng túc tôn ở đời, tên Ngài là Nan Thắng, Phật ấy thuyết bài kệ.”
Đàm-mô-cúc-đa (Dharmagupta) chính là Pháp tạng. phương Đông Bắc có Phật Nan Thắng, hiện đang tại thế, không biết bà kệ tụng do Phật Nan Thắng thuyết là gì. Phật thí dụ trong Thí dụ do Đồng diệp bộ truyền cũng có tư tưởng 10 thế giới có nhiều Phật cùng xuất hiện, như (Nam truyền 26, tr. 9-11) nói:
“Thế gian này có 10 giới, mỗi phương đều không có giới hạn; bất kỳ phương nào cũng có cõi Phật, không thể biết được số lượng.” (tr. 64)
“Rất nhiều Phật và La-hán ở khắp nơi tập trung đến (cõi này). Con xin kính lễ và quy mạng các vị Phật và La-hán ấy. Khó thể suy lường được chư Phật, không thể suy lường hết Phật Pháp, cái quả mà người có niềm tin trong sáng này đạt được là điều khó suy lường nhất trong những điều khó suy lường!” (tr. 76-77)
Sự truyền ra của Bổn sanh và Thí dụ, dường như trong đời sống quá khứ của đức Thích tôn, từ đầu chí cuối đều tu hành tại thế giới này; thấy đa số Phật thuộc quá khứ cũng từ đầu chí cuối đều ở tại thế giới này. Vì vậy “tất cả các vị Luận sư của các Bộ phái đều nói: Tất cả chư Phật đều từ Diêm-phù-đề xuất hiện.”18 Hoặc nói: “Tất cả chư Mâu-ni đều thành đạo tại Già-da [Gayā], cũng cùng ở tại nước Ca-thi [Kāśī] chuyển Chánh Pháp luân;”19 cho nên có truyền thuyết về “4 nơi (nơi thành đạo, nơi chuyển Pháp luân, nơi hàng phục ngoại đạo, nơi từ trời đi xuống) theo thông lệ.” Không chỉ đồng thời không có 2 vị Phật, mà đức Phật trước và đức Phật sau đều xuất hiện tại Diêm-phù-đề (Jambudvīpa) - Ấn-độ. Đây là chú ý cõi này mà xem nhẹ thế giới của các vị Phật khác. Từ luận Đại trí độ và luận Nhập Đại thừa, căn cứ theo pháp Thanh văn mà phê bình thuyết ‘2 vị Phật không cùng xuất hiện’, chủ yếu là: 1. Vô lượng vô số thế giới trong 10 phương là điều mà kinh Tạp A-hàm đã nói.20 Trong các thế giới ở 10 phương đều có chúng sanh, chúng sanh đều có phiền não, đều có sanh già bệnh chết, vì sao ở các thế giới khác ấy không có Phật xuất thế? 2. Quyển 9 của luận Đại trí độ (T. 25, tr. 126a) dẫn kinh Trường A-hàm nói:
“Chư Phật trong thời quá khứ, vị lai và hiện tại, con đều xin cúi đầu lễ lạy tất cả. Con nay quy mạng Phật như vậy, cũng như cung kính chư Thế tôn trong 3 thời gian.”
Bài kệ này của kinh đã ám chỉ ngoài Phật Thích-ca ra còn có các đức Phật khác trong thời hiện tại. Có vô lượng thế giới, vô lượng chúng sanh, thì hẳn phải có Phật đồng thời xuất hiện ở trong vô lượng thế giới. Còn về phần kinh Đa giới nói đồng thời không có 2 vị Phật, đó là nói trong một cõi Phật này, không thể có 2 vị Phật đồng thời, hoàn toàn chẳng phải là ở các cõi Phật khác cũng không có. Kinh Đa giới cũng nói: không có 2 vị Luân vương đồng thời, cũng chỉ là căn cứ vào 1 thế giới để nói mà thôi. Thuyết có nhiều vị Phật có mặt đồng thời, đối với giới Phật giáo có thể nói là rạng rỡ mới mẻ hơn lên! Trong hiện tại, ở vô lượng thế giới có vô lượng chư Phật, nguyên nhân của nó là do đức Thích tôn nhập niết-bàn nên những người tin Phật cảm thấy không có nơi nương tựa, có thể sanh ở các cõi Phật của các vị khác. Bồ-tát tu Bồ-tát đạo cũng có thể đi đến các thế giới khác, không chỉ giới hạn nơi một thế giới. Có nhiều vị Phật thì có nhiều Bồ-tát. Mỗi vị Phật có mỗi thế giới, không phải là bài ngoại, cho nên hàng Bồ-tát nếu như có thần lực thì cũng có thể đi đến các thế giới trong 10 phương. Thế giới của Phật rộng lớn đến vô hạn, dẫn đến việc giao lưu lẫn nhau giữa Phật và hàng Bồ-tát. Vì vậy, trong các thế giới ở 10 phương, tên của Phật và Bồ-tát có vô số, nhanh chóng được truyền bá ra, Phật Pháp đã đi vào thời đại Phật Pháp Đại thừa.

Mục 2. Phật theo hiện thực và Phật theo lý tưởng

“Đức Thế tôn diệt độ, sao mà nhanh chóng quá! Đại pháp bị chìm lấp sao mà nhanh chóng quá! Quần sanh bị suy kém lâu dài, con mắt của thế gian đã diệt!”1 Đây là sự cảm thương trong tâm của hàng tỳ-kheo vào lúc Phật diệt độ. Các tỳ-kheo biết rằng, từ đây “không còn được che chở, mất đi chỗ nương tựa,” giống như đứa cô nhi mất đi cha mẹ. Vì Phật Pháp, vì chúng sanh, vì tự mình, đều có sự cảm thương không thể thành lời, bởi vì Phật nhập niết-bàn rồi, không phát sanh sự giao thiệp trở lại với thế gian nữa. Đa số rất nhiều cá nhân của Phật giáo đều có sự cảm thương vì mất đi ‘sự che chở’, ‘nương tựa’. Sự cảm thương trong tâm này là vô cùng sâu sắc. Vì lý do đó, ‘Pháp thân bất diệt’, ‘Pháp thân thường tại’ đã được nêu ra rõ ràng. ‘Pháp thân bất diệt’, ‘Pháp thân thường tại’ có 3 ý nghĩa khác nhau, nhưng có thể nói là đều  phù hợp với Phật Pháp.
1. Sau khi Phật niết-bàn, hỏa táng thân xác thịt của Phật, thâu nhặt xá-lợi (śarīra), xây tháp (stūpa), đây là bổn phận của hàng đệ tử tại gia. Hàng đệ tử xuất gia, do ngài Đại Ca-diếp (Mahākāśyapa) đề nghị, cử hành cuộc đại hội kết tập tại thành Vương Xá (Rājagṛha), kết tập Kinh pháp và Giới luật do Phật thuyết, khiến cho Tăng đoàn hòa hợp, Phật Pháp có thể tồn tại lâu dài về sau. Kinh pháp và Giới luật được kết tập ấy, thì gọi là Pháp thân, như quyển 1 của kinh Tăng nhất A-hàm (T. 2, tr. 549c) nói:
“Bậc thầy của chúng ta là đức Thích tôn ra đời có tuổi thọ rất ngắn, thân xác thịt tuy mất nhưng Pháp thân vẫn còn. Vì muốn khiến gốc của Pháp không bị đoạn dứt nên A-nan chớ từ chối thuyết pháp trong lúc này.”
‘Gốc của Pháp’ chính là Tu-đa-la – Kinh (hoặc là Pháp ba-lợi-da-dạ [Dharma-paryāya – pháp môn]). Sự kết tập và truyền bá Kinh pháp chính là Pháp thân của đức Thích tôn tồn tại lâu dài. Tư tưởng ‘Pháp thân tồn tại lâu dài’ này không phải là mới có sau, mà như bài kinh 16 – kinh Đại Bát-niết-bàn trong Trường bộ (Nam truyền 7, tr. 142) nói:
“Này A-nan! Pháp, Luật mà Ta đã thuyết, sau khi ta diệt độ, chúng là thầy của các ngươi.”
Ngài A-nan cảm thấy rất đau buồn vì mất đi bậc thầy cao cả (Phật), cho nên Phật an ủi vị ấy rằng: Pháp và Luật mà Ta đã dạy cho các ngươi, chính là bậc thầy cao cả của các ngươi. Chỉ cần dựa vào Luật để làm việc, dựa vào Pháp để tu hành, không bằng như lời dạy của Phật lúc Ngài còn tại thế ư? Xem xá-lợi của Phật là thân xác thịt, Kinh và Luật là Pháp thân, cũng bằng với sự diện kiến bậc thầy cao cả, có chỗ nương tựa, có chỗ che chở. Nhưng những Luật sư trọng về Luật lại chuyên nơi phương diện Giới luật để thuyết, như quyển 38 của Căn bản Thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự (T. 24, tr. 398c-399a) nói:
“Này các Bí-su! Sau khi Ta niết-bàn, các ngươi suy nghĩ như vầy: Ngày nay ta không còn có vị thầy cao cả. Các người không nên khởi lên quan điểm như vậy! Ta dạy các người mỗi nửa tháng đọc tụng Ba-la-đề-mộc-xoa, cần phải biết đây chính là vị thầy cao cả của các ngươi, là nơi nương tựa của các ngươi, nếu Ta còn ở trên đời thì cũng không có pháp nào khác.”
Phật sở hành tán, kinh Phật thùy bát-niết-bàn lược thuyết giáo đều nói Ba-la-đề-mộc-xoa (Pratimokṣa) – Giới kinh, là vị thầy cao cả của các ngươi,2 thì phù hợp với Tạp sự. Đây là tôn trọng Kinh pháp và Giới luật của Phật, xem như là Pháp thân của Phật; nếu như tâm tương ưng với Pháp, Luật, thì cũng có thể nói là cùng ở một nơi với Phật.
2. Ngài Xá-lợi-phất (Śāriputra) – đại đệ tử của Phật, đã nhập niết-bàn tại quê hương của mình. Sa-di Thuần-đà (Cunda, hoặc dịch là Quân-đề, Quân-đầu) – đệ tử của ngài Xá-lợi-phất, đã xử lý tốt việc hậu sự, mang xá-lợi (di cốt), y bát của ngài Xá-lợi-phất đến thành Vương Xá yết kiến đức Phật. Ngài A-nan (Ānanda) đã nghe được tin ngài Xá-lợi-phất nhập niết-bàn, trong tâm vô cùng khổ não. Lúc ấy, Phật an ủi ngài A-nan rằng: “Này A-nan! Tôn giả Xá-lợi-phất có trì giới thân đã thọ mà niết-bàn chăng? Có trì định thân, huệ thân, giải thoát thân, giải thoát tri kiến thân mà niết-bàn chăng? A-nan bạch Phật rằng: Không phải vậy! Bạch Thế tôn!”3 Giới thân, định thân, huệ thân, giải thoát thân, giải thoát tri kiến thân, ‘thân’ là khandha – kiền-độ, có nghĩa là ‘tụ -nhóm’. Nhưng về sau, khandha đều được chép thành skandha – uẩn, như 8 kiền-độ được gọi là 8 uẩn. Năm thân gồm giới thân, v.v., chính là 5 uẩn. Năm uẩn hữu lậu của chúng sanh là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, đây là pháp chắc chắn phải bị mục nát, cuối cùng phải bị vô thường diệt mất. Năm uẩn vô lậu mà bậc Thánh giả có được – giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, hoàn toàn không phải vì niết-bàn mà bị tiêu diệt, đây là thân vô lậu, cũng gọi là 5 phần Pháp thân. Niệm Phật của hàng đệ tử Phật vào thời cổ đại, chính là cột chặt ý niệm về 5 phần Pháp thân này, đây mới là Phật đúng nghĩa. Trước khi chưa thành Phật, có sắc thân gồm 32 tướng tốt, nhưng hoàn toàn vị ấy không được gọi là Phật. Cho nên không được căn cứ trên mặt sắc thân mà nói đó là Phật, mà phải căn cứ trên mặt công đức của 5 uẩn vô lậu rốt ráo mà nói đó là Phật (nhưng, 5 phần Pháp thân là thông với A-la-hán). Như sự quy y Phật, Phật tuy đã nhập niết-bàn, nhưng vẫn là nơi quy y của chúng sanh, chính là căn cứ vào công đức vô lậu rốt ráo mà nói. Quyển 34 của luận A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa (T. 27, tr. 177a) – bản giải thích của luận Phát trí, nói:
“Nay, rõ ràng cái thân do cha mẹ sanh ra và nuôi lớn này là pháp hữu lậu, chẳng phải là nơi quy y. Nơi quy y, đó là pháp mà Phật không phải do sự học hỏi mà thành tựu bồ-đề, tức là Pháp thân.”
Thân hữu lậu và cái pháp vô lậu do thành tựu bồ-đề mà có, luận Tạp tâm cũng gọi đó là sanh thân và Pháp thân.4 Như vậy, Pháp thân có công đức vô lậu của Phật trở thành nơi quy y vĩnh viễn cho nhân loại. Pháp thân 5 uẩn hoàn toàn không nhân vì niết-bàn mà tiêu mất, đây lại là một thuyết nữa của ‘Pháp thân bất diệt’, ‘Pháp thân thường tại’.
3. Truyền thuyết: Phật lên trời Đao-lợi (Trāyastriṃśa) thuyết pháp cho mẹ ruột, Ngài trụ lại trên trời 3 tháng. Đợi đến ngày nhất định, Ngài từ trên trời đi xuống, hàng đệ tử Phật ở các nơi đều đến để yết kiến Phật, lễ Phật, đây là một buổi tập trung rất long trọng. Bấy giờ, ngài Tu-bồ-đề (Subhūti, dịch là Thiện Nghiệp, Thiện Hiện) suy nghĩ: Ta có cần phải đến yết kiến đức Phật không? Quán tất cả pháp đều vô thường, vô ngã, không, là điều mà đức Phật hi vọng các đệ tử của mình tu chứng, ta tại sao không dựa vào lời Phật dạy để tu chứng ư! Do vậy, Tu-bồ-đề đã quán sâu sắc về tướng của các pháp, chứng đắc đạo quả. Riêng có một vị tỳ-kheo-ni tên là Liên Hoa Sắc (Utpalavarṇā), nhanh chóng tách riêng ra đến trước mặt để yết kiến Phật. Phật xem Tu-bồ-đề đã yết kiến Phật, lễ Phật trước, như quyển 11 của luận Đại trí độ (T. 25, tr. 137a) nói:
“(Tu-bồ-đề) suy nghĩ rằng: đức Phật thường nói: Nếu người nào dung con mắt trí tuệ quán sát Pháp thân của Phật, thì đó là người thấy Phật trước nhất trong những người thấy Phật… Khi quán như vậy, liền được chứng đạo.”
“Phật bảo tỳ-kheo-ni: Ngươi chẳng phải là người lễ Ta trước nhất, Tu-bồ-đề là người lễ Ta sớm nhất. Vì sao vậy? Vì Tu-bồ-đề quán các pháp đều là không, đó là thấy được Pháp thân của Phật.”
Truyền thuyết này có tương đối sớm, trong phần nhân duyên của phẩm Nghĩa đã nói đến rồi.5 Đại Đường Tây Vực ký cũng có chép lại chuyện này rằng: “Ngươi chẳng phải yết kiến Ta trước. Vì Thiện Hiện quán các pháp đều là không, đó là thấy được Pháp thân.”6 Quyển 28 của kinh Tăng nhất A-hàm (T. 2, tr. 707c-708a) nói:
“Nếu người nào muốn lễ chư Phật trong đời quá khứ và tương lai, và chư Phật trong đời hiện tại thì nên suy nghĩ về vô ngã.” (Vô thường, không cũng giống như vậy)
“Thiện Nghiệp là người lễ trước, sớm nhất không có người nào hơn; không – vô giải thoát môn, đây là nghĩa của việc lễ Phật. Nếu người nào muốn lễ chư Phật thuộc tương lai hay quá khứ, thì nên quán về pháp không – vô, đây gọi là nghĩa của việc lễ Phật.”
Chứng và thấy được sự vắng lặng của pháp tánh nên gọi đó là thấy Phật, lễ Phật, ý nghĩa rất là sâu sắc! Đức Phật sở dĩ thành Phật là do đã chứng đắc sự vắng lặng của pháp tánh, cũng chính là Pháp thân của Phật. Như vậy, nếu như hàng đệ tử Phật trải qua sự tu hành mà đạt đến cảnh giới giống như thế, chính là đã thấy được những gì Phật đã thấy, đạt được cái lý do mà Phật được thành Phật. Ở đây không chỉ có thể nói là thấy được Pháp thân của Phật, mà cũng có thể nói là ‘đắc được Pháp thân’.7 Thấy được Pháp thân của Phật là do trải qua sự tu hành mà đạt được, cho nên kinh Phật thùy bát-niết-bàn lược thuyết giáo giới (T. 12, tr. 1112b) nói:
“Các đệ tử nối tiếp nhau thực hành pháp ấy thì Pháp thân của Như lai sẽ luôn luôn tồn tại mà không bị diệt mất.”
Pháp thân là cảnh giới của sự tự giác ngộ. ‘Pháp thân luôn luôn tồn tại mà không bị diệt mất’ là do sự tu hành của hàng đệ tử. Có sự tu hành thì sẽ có sự chứng đắc; có sự chứng đắc thì Pháp thân sẽ hiện ra trong sự tự giác ngộ của hàng đệ tử, cũng chính là xuất hiện ở nhân gian. Có nhiều người tu chứng thì Pháp thân ấy sẽ luôn luôn tồn tại ở nhân gian mà không bị diệt mất. Sự thấy được Pháp thân của Phật như vậy, tuy giới hạn trong số ít Thánh giả, nhưng có tác dụng sách tấn và khích lệ tu hành.
Việc chính mình thấy được tánh không của pháp là Pháp thân của Phật, chỉ giới hạn trong số ít bậc Thánh. Kinh, Giới (Ba-la-đề-mộc-xoa) là Pháp thân của Phật, tuy thông với nội bộ Tăng-già, nhưng mối quan hệ với tín chúng thông thường thì thiếu mật thiết. Năm uẩn vô lậu là Pháp thân của Phật, có thể làm nơi quy y của chúng sanh, nhưng Phật đã nhập niết-bàn, 5 phần Pháp thân của Phật vẫn không có liên quan gì với thế gian. Cho nên 3 thuyết ở trên – ngoài thân xác thịt lập riêng Pháp thân, đối với những thanh niên mới học thuộc nội bộ Tăng đàon, những tín giả thông thường ở xã hội, thì sự hoài niệm về đức Phật-đà, cảm giác cậy nhờ ở trong tâm, là điều không dễ thỏa mãn. Vì vậy trong sự tôn trọng và phụng thờ di thể, di vật, di tích của đức Phật-đà, trong truyền thuyết của Bổn sanh, Thí dụ, Nhân duyên, đã dẫn đến phát sanh một thuyết Pháp thân luôn luôn tồn tại có loại hình riêng. Tư tưởng này, trong sự bàn luận về Phật Pháp, biểu hiện thành sanh thân của Phật thuộc hữu lậu hay vô lậu, như Dị bộ tông luân luận (T. 49, tr. 15b) nói:
“Đại chúng bộ, Nhất thiết bộ, Thuyết xuất thế bộ, Kê-dận bộ có cùng chủ trương với tông phái gốc của mình, nghĩa là 4 bộ này đều cho rằng: chư Phật Thế tôn đều là những bậc xuất thế, tất cả đức Như lai đều không còn có pháp hữu lậu.”
Luận đề này, luận Đại tỳ-bà-sa trình bày rõ ràng hơn, như quyển 173 (T. 27, tr. 871c-872b) nói:
“Những người thuộc hệ Phân biệt luận và các sư Đại chúng bộ chủ trương sanh thân của Phật là pháp vô lậu… Như Khế kinh nói: Như lai sanh ra rơi đời, trụ thế, xuất hiện nơi thế gian nhưng không bị pháp thế gian làm ô nhiễm. Vì các vị ấy căn cứ vào đây nên nói sanh thân của Phật là pháp vô lậu. Lại nữa, các vị ấy nói rằng: Vì đức Phật đã đoạn trừ vĩnh viễn tất cả phiền não và tập khí, thì sanh thân [của Phật] vì sao là hữu lậu được!”
(Thuyết nhất thiết hữu bộ): “Vì sao biết được sanh thân của Phật là pháp hữu lậu?... Không bị 8 pháp của thế gian làm nhiễm ô; vì chẳng thể gọi sanh thân là vô lậu, [nên chỉ] nói là không bị nhiễm ô… Tuy trong tự thân đã vĩnh viễn đoạn trừ các lậu, nhưng vì có thể làm tăng trưởng thân lậu của kẻ khác, lại vì từ các lậu trước đó sanh ra, nên nói là hữu lậu.”
Công đức vô lậu của Phật là thứ thuộc xuất thế, gọi là Pháp thân (thuyết của Thuyết nhất thiết hữu bộ, v.v.), đây là điều không có dị nghị. Sanh thân của Phật – thân gồm 32 tướng, Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) và Phân biệt thuyết bộ (Vibhajyavādin) cho là thuộc vô lậu; Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin), v.v., cho là thuộc hữu lậu: đây là vấn đề được tranh luận. Phật là bậc xuất thế, vô lậu, đây là điều đã trình bày ở trên. Cho đến khi đi vào thời kỳ lý luận chặt chẽ, thì Pháp thân và sanh thân của Phật được phân biệt ra, xem sanh thân là thuộc hữu lậu, điểm này, nếu theo thuyết thông tục mà không phân biệt thêm, thì mới không phù hợp với Đại chúng bộ. ‘Vô lậu’ nguyên chỉ có ý nghĩa là không có phiền não, hoàn toàn không có gì thần kỳ. Như Pháp tạng bộ (Dharma-guptaka) nói: “Thân A-la-hán đều là vô lậu;”8 “nay ở giữa cây song thọ, diệt thân vô lậu của Ta.”9 Pháp tạng bộ là tách ra từ Phân biệt thuyết bộ, họ cho rằng không chỉ thân Phật là vô lậu, mà thân A-la-hán cũng là thuộc vô lậu. Về sau, các Thí dụ sư của Kinh bộ (Sūtravādin-Dārṣṭāntika) nói: “Pháp mà chẳng phải thuộc hữu tình số, lìa khỏi sắc, v.v. ở  trong thân nên gọi là pháp vô lậu;” “căn cứ vào lời huấn từ thì nó cùng kết hợp với các lậu nên gọi là hữu lậu.”10 Lời kinh [Giáo chứng] mà Thí dụ sư đã dẫn giống với lời của Đại chúng bộ mà luận Tỳ-bà-sa đã thuật lại. Họ cho rằng, vô lậu chỉ có nghĩa là không có phiền não. Ở đây có thể suy ra thấy được, thân Phật là xuất thế, thân Phật là vô lậu, khởi đầu chỉ là sự giải thích theo thông tục. Nhưng trong Bổn sanh, Thí dụ, Nhân duyên, sự hưng khởi của truyền thuyết liên quan đến Phật và Bồ-tát, đã dẫn đến phát sanh nhiều vấn đề, vì vậy hệ Đại chúng bộ, dưới nguyên tắc thân Phật là xuất thế, vô lậu, đã phát huy ra thuyết ‘thân Phật luôn luôn tồn tại’ mới.
Muốn hiểu rõ vấn đề này thì trước hết phải hiểu rõ thuyết ‘sanh thân của Phật là hữu lậu’ của Thuyết nhất thiết hữu bộ. Thuyết nhất thiết hữu bộ cho rằng: sanh thân của Phật là do cha mẹ sanh. Khi chưa thành Phật trở về trước, là thân thể này, sau khi thành Phật, cũng là thân thể này: đây là thân hữu lậu do hữu lậu che lấp sanh ra. Sắc thân của Phật cũng giống với những người thông thường khác, phải uống ăn, cũng có đại tiểu tiện, cũng phải ngủ nghỉ. Phật từng bị các thứ bệnh như đau lưng, đau đầu, tiêu chảy, cũng từng phải uống thuốc. Thân thể của Phật cũng từng bị thương chảy máu. Khi tuổi về già, da cũng nhăn nheo, sau cùng cũng phải bị vô thường biến hoại. Cho nên, lý do đức Phật là Phật vì Ngài có Pháp thân 5 uẩn vô lậu. Sắc thân, chẳng qua là chỉ nhờ nó để đắc bồ-đề vô thượng mà thôi. Lúc sanh tiền tuy có thần thông, nhưng lực thần thông cũng không bằng lực to lớn của vô thường được.11 Kinh Tăng nhất A-hàm nói: “Nay, Ta cũng là nhân số.”12 Phật là con người, là vị Phật xuất hiện trong lịch sử, có hiện thực ở nhân gian. Đức Phật-đà mà là một người nhân gian này, trong truyền thuyết của Bổn sanh, Thí dụ, Nhân duyên, có khi có quan điểm bất đồng. Về mặt này, có khi là thấy không phù hợp với lý luận, có khi là không thể làm thỏa mãn như cầu của tín ngưỡng. Không phù hợp với lý luận là: nhân duyên nghiệp báo là nguyên lý trọng yếu của Phật Pháp. Phật, ở trong nhiều đời sống quá khứ, tu tập công đức trong vô lượng vô số đời, thì hẳn Ngài phải có cái báo thân viên mãn mới đúng. Nhưng đức Phật mà thuộc nhân gian thì vẫn còn có rất nhiều chuyện không viên mãn. Nếu như Phật trong nhiều kiếp lâu xa đã không sát sanh, thì Ngài hẳn phải có thọ mạng rất dài, tại sao chỉ có 80 tuổi? Điểm này, dường như sớm đã được chú ý, cho nên có thuyết ‘xả bỏ thọ mạng’.13 Không dùng đấm, đá, dao, gậy để làm thương tổn kẻ khác, thì phải được quả báo không có bệnh tật, tại sao Phật bị đau đầu, đau lưng? Bố thí thì có thể được giàu sang, trong vô lượng đời, Phật đã bố thí tất cả, tại sao không có người bố thí, khiến cho Ngài phải ‘ôm bát trống trổ về’? Lại nữa, nếu như trong đời sống quá khứ, Phật không tranh chấp với kẻ khác, luôn luôn là từ bi che chở, kết thành vô lượng duyên lành với chúng sanh, tại sao khi đã thành Phật, Ngài vẫn còn bị sự hủy báng và phá hoại của kẻ oán địch? Trong vô lượng đời sống quá khứ, Phật đã tu các sự thực hành to lớn của Bồ-tát, thì không nên phải chịu các quả báo như thế! Những việc không viên mãn, Kinh và Luật đã nói rất nhiều, người xưa từng tổng kết thành ‘9 loại quả báo’ trọng yếu. Thuyết nhất thiết hữu bộ giải thích là do bị nghiệp lực quá khứ chi phối,14 nhưng những tín giả thông thường thì không thể tán đồng. Điều này không thể không hoài nghi, như quyển 9 của luận Đại trí độ (T. 25, tr. 121c) nói:
“Phật đời đời tu các thứ khổ hạnh, vô lượng vô số đầu mắt tủy não thường bố thí cho chúng sanh, đâu chỉ quốc gia, tài sản, vợ con mà thôi. Tất cả các thứ giới, các thứ nhẫn, các thứ tinh tấn, các thứ thiền định và trí tuệ thanh tịnh không gì sánh bằng, không thể phá hoại, không thể tận cùng, đời đời đã tu hành đầy đủ, do lực của kết quả này nên đạt những oai thần đặc biệt không thể đong đếm được. Vì vậy nên nói: vì nhân duyên lớn nên quả báo cũng lớn. Hỏi: Nếu thần lực của Phật là vô lượng, uy nghi vòi vọi không thể kể xiết, thì vì cớ gì mà phải chịu 9 thứ tội báo? Một là, nữ Phạm-chí tên là Tôn-đà-lợi chê bai (Phật), 500 vị A-la-hán cũng bị chê bai; hai là, nữ bà-la-môn tên là Chiên-già buộc cái chậu bằng gỗ vào bụng để giá họa cho Phật; ba là, Đề-bà-đạt-đa xô đá núi lấp Phật, làm Ngài bị thương ngón chân cái; bốn là, bị miếng giăm gỗ rơi trúng bàn chân; năm là, vua Tỳ-lưu-ly đem binh giết hại dòng họ Thích, lúc ấy Phật bị đau đầu; sáu là, nhận lời thỉnh của bà-la-môn A-kỳ-đạt-đa nhưng phải ăn lúa ngựa; bảy là, bị gió lạnh thổi nên Ngài đau xương sống; tám là, phải trải qua 6 năm tu khổ hạnh; chín là, Ngài đi vào tụ lạc của Bà-la-môn thì khất thực không được, bát không mà trở về. Lại nữa, khi mùa đông đến trước sau được 8 đêm, gió lạnh thổi gãy cây trúc, làm rách cái y thứ 3 dùng để chống lạnh của Ngài; lại nữa, vì Ngài bị nóng bức nên ngài A-nan đứng hầu phía sau để quạt… Vì lý do gì mà Ngài phải chịu những tội báo ấy?”
Luận Đại trí độ là bộ luận của Đại thừa. Nghi vấn ‘phải chịu các tội báo’ mà trong luận này đã nêu, là căn cứ vào Bổn sanh, Bổn sự mà ra. Tu hành vô lượng trong đời sống quá khứ, nhân duyên lớn thì quả báo nhận được phải lớn, đối với sự mâu thuẫn trên mặt lý luận này, luận Đại trí độ đã đề xuất thuyết có 2 thân – sanh thân của pháp tánh và sanh thân của cha mẹ. Sanh thân của pháp tánh là chân thật, sanh thân của cha mẹ là phương tiện, đã giải quyết thông suất mâu thuẫn này bằng cách như vậy. Như việc Phật phải ôm bát không trở về, và có bịnh phải uống thuốc, thì giải thích rằng ‘đây là phương tiện, chẳng phải thật chịu tội.”15 Ý nghĩa của ‘phương tiện’ là: nhằm thương tưởng các tỳ-kheo ở đời vị lai, nên dùng phương tiện như thế để thị hiện. Quyển 31 của luật Ma-ha Tăng-kỳ (T. 22, tr. 481a) nói:
“Đồng tử Kỳ Cựu đi đến chỗ Phật, đầu mặt lễ dưới chân, rồi bạch Phật rằng: Bạch đức Thế tôn! Con nghe nói thân thể của đức Thế tôn không được điều hòa, thì có thể uống thuốc để điều trị. Đức Thế tôn tuy không chấp nhận nhưng vì chúng sanh nên chấp nhận thuốc này. Khiến cho chúng sanh trong đời vị lai nghe được pháp môn khai thị này, người bệnh thì dùng thuốc, người bố thí thì được phước.”
Đại chúng bộ chủ trương thân Phật là xuất thế và vô lậu. Đối với việc sanh bệnh và uống thuốc của Phật, giải thích là ‘vì chúng sanh’, thì phù hợp với điều mà luận Đại trí độ đã nói. Cho nên luận Đại trí độ, đối với giải thích về nghi vấn phải bị chịu tội, thật tế là có nguồn gốc sâu xa từ quan điểm của Đại chúng bộ. Phương tiện tức là đã ám chỉ cho Phật chân thật thì hoàn toàn không phải như thế.
Sự hoài niệm về đức Phật-đà, mà không thể thỏa mãn tình cảm trên mặt tôn giáo, nên đại chúng thuộc hàng thanh niên, trong sự không tự giác, đã dẫn đến xuất hiện tín ngưỡng thân của Phật là luôn luôn tồn tại, như Dị bộ tông luân luận (T. 49, tr. 15b-c) nói:
“Chư Phật Thế tôn đều là các bậc xuất thế; tất cả đức Như lai đều không có pháp hữu lậu.”
“Mọi lời của các đức Như lai đều là chuyển Pháp luân; Phật dùng một âm để thuyết tất cả pháp; những lời do đức Thế tôn thuyết không có lời nào là không như nghĩa.”
“Sắc thân của đức Như lai thật sự không có giới hạn; uy lực của Như lai cũng không có giới hạn; lượng tuổi thọ của chư Phật cũng không có giới hạn.”
“Phật giáo hóa hữu tình, khiến sanh ra niềm tin trong sạch, [mà Phật] không có tâm chán mệt; Phật ngủ không có mộng; Như lai vấn đáp không cần phải đợi suy nghĩ; trong mọi lúc, Phật không nói lời nào, vì luôn luôn ở trong định, nhưng các hữu tình thì cho rằng Phật nói lời này lời nọ, nên hoan hỉ nhảy nhót.”
“Trong một sát-na, tâm của Phật biết rõ tất cả pháp; trong một sát-na, tâm của Phật tương ưng với bát-nhã nên biết tất cả pháp.”
Các vấn đề tranh luận như thế, ở đây không liệt kê và bàn thêm, chỉ nêu ra vài điểm. ‘Lượng tuổi thọ không có giới hạn’ là luận đề căn bản của thuyết ‘thân Phật luôn luôn tồn tại’. ‘Sắc thân không có giới hạn’ là không ở đâu mà không có Phật. ‘Uy lực không có giới hạn’ là không có gì mà Phật không làm được. ‘Trong một sát-na, tâm biết rõ tất cả pháp; trong một sát-na, tâm tương ưng với bát-nhã nên biết tất cả pháp’ là không có điều gì mà Phật không biết. ‘Phật giáo hóa hữu tình, khiến sanh ra niềm tin trong sạch, [mà Phật] không có tâm chán mệt’ là Phật luôn luôn thương tưởng chúng sanh, không có ngừng nghỉ, thường xuyên tế độ chúng sanh có duyên. Phật là bậc không ở đâu mà không có mặt, không có gì không làm được, không có điều gì mà không biết, mà lại vĩnh hằng, luôn luôn tồn tại, sự thương tưởng chúng sanh, lợi ích cho chúng sanh như vậy, thì đủ để làm thỏa mãn nhu cầu trên mặt tình cảm tôn giáo của tín chúng. Họ lý giải rằng, ta từ Phật Pháp mà được [giải thoát], thần chỉ là sự tuyệt đối hóa của ý dục vô hạn của nhân loại. Sự ham muốn sống lâu của nhân loại, trong một hoàn cảnh nào đó, là kéo dài vô hạn mà được đầy đủ. Đối với chính mình, như tướng mạo, sức khỏe (không bệnh), tuổi thọ, giàu có, quyến thuộc – sự hài hòa mãn ý giữa người với người, tri thức, năng lực, quyền lực địa vị đều muốn có tốt hơn, đều muốn có viên mãn hơn. ‘Đã làm hoàng đế lại muốn thành tiên’ chính là sự biểu hiện của ý dục này. Nhưng những ham muốn vô hạn của tự ngã, trong hiện thực giới tương đối, là vĩnh viễn không thể đầy đủ. Tiếp xúc với hoàn cảnh bên ngoài, hư không và ánh sáng vô hạn, v.v., không thể hiểu rõ nên cảm thấy thần bí, vì vậy ý dục của tự ngã không ngừng ám chỉ ra, tưởng tượng đó là thần. Thần là tùy theo sự tiến bộ của nhân loại mà tiến bộ, phát triển đến thần tối cao, vị thần ấy chính là đấng vĩnh hằng; không chỗ nào không có, không điều gì không biết, không điều gì không thể làm được. Quyền lực tuyệt đối, làm chủ tể tất cả, thương tưởng đến vận mệnh của nhân loại. Sự tuyệt đối hóa ý dục của tự ngã, tưởng tượng thành vị thần tuyệt đối. Trực giác biết được con người – chính mình có 1 phần thần tánh của thần, vì thế không thể ở nơi chính mình đạt đến sự viên mãn, nên nỗ lực tín ngưỡng đối với thần và trong cứu tế của thần thật hiện ra. Yêu cầu của tôn giáo thông thường, dường như bằng hình thức như thế để đạt được sự đầy đủ. Cho nên, đức Phật lý tưởng của hệ Đại chúng bộ là đem ý thức tôn giáo có sẵn của nhân loại biểu hiện ở trong Phật Pháp. Có thể nói là thần tánh của ý thức tôn giáo thông thường trải qua sự tịnh hóa của Phật Pháp, rồi biểu hiện thành đức tánh của Phật. Điều này thật là ‘mọi người cùng một tâm này, tâm này cùng một lý này;’ hẳn cũng phải là, từ vô thỉ đến nay, nhân loại bị vô minh (ngu muội) che lấp, tướng ngu si theo ý dục về sanh mạng được biểu hiện ra. Tóm lại, đức Phật-đà như thế, không chỉ ý thức của tôn giáo thông thường đã có đủ, mà Phật và Bồ-tát trong Bổn sanh, Thí dụ, Nhân duyên, đã có sự bất điều hòa với hiện thật nhân gian, cũng có thể giải thích thông suốt được. Nhưng Phật-đà thuộc lý tưởng, tuy nói là Phật hóa của thần, nhưng rốt cục đã trải qua sự tịnh hóa bằng Phật Pháp. 1) Phật là bậc do tu hành thành tựu (về sau phát triển đến ‘xưa nay vốn là Phật’, chính là thần hóa tiến bộ một bước); 2) Phật sẽ không trừng phạt con người, chỉ có từ bi; 3) tu hành thành Phật, Phật với Phật bình đẳng, không phải giống như Thần giáo, tuy vĩnh viễn sanh nơi thế giới của thần, nhưng cuối cùng vẫn là kẻ bị thống trị, thấp hơn một cấp so với thần. Dùng đức Phật-đà lý tưởng làm lý tưởng, nên thệ nguyện tu học thành tựu, thì đã tiến vào lãnh vực của Đại thừa.
Đức Phật-đà thuộc hiện thực nhân gian là xem trọng Kinh, Luật tảo kỳ. Đức Phật-đà thuộc lý tưởng là xem trọng Bổn sanh, Thí dụ, Nhân duyên có về sau, chủ yếu là thể kệ tụng. Trong cuộc kết tập lần đầu tiên, Kỳ-dạ (Geya) vốn là tên gọi chung cho tất cả kệ tụng.16 Trong cuộc kết tập lần thứ hai, Bổn sanh, Thí dụ, Nhân duyên mà được biên tập vào kinh A-hàm, đều là thể văn xuôi (hoặc có chứa kệ tụng). Trong những kệ tụng lúc bấy giờ, Kỳ-dạ trở thành tên riêng của ‘phần tụng của 8 chúng’, mà gọi những kệ tụng khác là Ưu-đà-na (Udāna), Giá-đà (Gāthā). Trừ số ít được biên tập vào kinh A-hàm ra, đa số không được chọn, mà lưu truyền bên ngoài. Bổn sanh, Thí dụ, Nhân duyên có về sau ấy, theo thuyết do Đồng diệp bộ truyền lại, thì đa số là thể kệ tụng. Như kinh Trưởng lão kệ, kinh Trưởng lão Ni kệ, kinh Thí dụ, kinh Phật chủng tánh đều là thể kệ tụng. Nòng cốt của kinh Bổn sanh cũng là thể kệ tụng (văn Pāli), dùng thể văn xuôi của Tích-lan giải thích. Bổn sanh, Thí dụ, Nhân duyên là ‘truyền thuyết’, đại để nhân vì tuyên truyền giáo pháp theo thông tục nên thịnh hành lên. Truyền thuyết lần lượt cho nhau, truyền thuyết thứ rất dễ thay đổi, càng truyền càng nhiều. Không biết là ai nói cho ai (suy tôn là do Phật thuyết), đã đại biểu cho khuynh hướng quần chúng Phật giáo thông thường. Kệ tụng là do sáng tác, là do các Văn học gia của các bộ các phái chọn lấy truyền thuyết hoặc nhằm tán thán Phật, Pháp, Tăng mà sáng tác. Nó thuộc loại văn học ưu mỹ, được truyền tụng nên lưu truyền về sau. Theo lời Đại chúng bộ và những người thuộc hệ Phân biệt luận, thì “chư Phật Thế tôn đều là những bậc xuất thế’, ‘thân Phật thuộc vô lậu’ đều là căn cứ vào kệ tụng mà nói. Phật ở tại thế gian nhưng không dính mắc vào thế gian, là rút ra từ kinh Tạp A-hàm; Đồng diệp bộ biên tập vào Tăng chi bộ.17 Thân Phật thuộc vô lậu là rút ra từ kinh Thế gian của kinh Trường A-hàm; Đồng diệp bộ biên tập vào Tăng chi bộ.18 Lại nữa, như Đại chúng bộ và những người thuộc hệ Phân biệt luận nói Như lai luôn luôn ở trong định, theo kinh Long tượng của kinh Trung A-hàm, thì thuộc Long tương ưng tụng của Ưu-đà-di (Udāyin) tán thán Phật; Đồng diệp bộ cũng biên tập vào Tăng chi bộ.19 Theo hệ Thuyết nhất thiết hữu bộ, Kỳ-dạ (tên gọi chung của thể kệ tụng) là thuộc bất liễu nghĩa, kinh Tạp A-hàm nói trình bày rõ ràng như vậy.20 Bởi vì thể kệ tụng là thi ca, bị giới hạn bởi âm vận và số chữ, không thể trình bày nghĩa lý một cách chặt chẽ theo trật tự rõ ràng, luôn luôn ngắn gọn, khái quát; thể kệ tụng thì không thích hợp để trình bày pháp tướng. Vả lại, kệ tụng là thuộc văn nghệ, văn nghệ là sở trường về trực giác, ít nhiều có điểm khoa trương, bởi vì điều này mới có khả năng dẫn đến phát sanh sự đồng cảm của mọi người. Kệ tụng thì không thể chiếu theo bề mặt của văn tự để giải thích, như Kinh Thi nói “mĩ hữu kiết di-靡有孑遺” thì chắc chắn không thể giải thích là ân nhân đều đã chết hết. Thi ca thì không nên căn cứ vào văn để giải nghĩa, cho nên phán xét nó là bất liễu nghĩa. Thuyết nhất thiết hữu bộ đối với những kệ tụng đương thời, đã đứng trên lập trường phê phán để tuyển chọn, như luận A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa21 nói:
“Ở đây không cần phải giải thích cho hợp lý, bởi vì nó không phải do Tố-đát-lãm, Tỳ-nại-da, A-tỳ-đạt-ma nói, nhưng là những văn tụng được chế ra. Hễ là văn tụng được chế ra thì hoặc có thêm hoặc bớt, không cần đúng như nghĩa.”
“Các bài tụng dùng để tán thán Phật, lời thường quá sự thật, như những nhà thuộc Phân biệt luận tán thán rằng tâm đức Thế tôn luôn luôn ở trong định… Lại tán thán rằng Phật luôn luôn không ngủ… Như những gì họ đã tán thán Phật, thì sự thật không đúng như những lời ấy.”
“Đạt-la-đạt-đa là một nhà sáng tác văn tụng, lời thường quá xa sự thật nên không cần phải giải thích cho hợp lý.”
Văn tụng là ‘lời thường quá xa sự thật’ cũng chính là ‘sự thật không đúng như những lời ấy’, thành phần khoa trương nhiều, những gì nói ra không nhất định phù hợp với nội dung, cho nên là không liễu nghĩa. Nhưng ý kiến của Đại chúng bộ và những người thuộc hệ Phân biệt luận thì bất đồng. Như trong cuộc kết tập, Kinh tạng của Đồng diệp bộ lập thành 5 bộ; Tiểu (Tạp) bộ lấy kệ tụng làm chủ, so với 4 bộ khác, có địa vị ngang nhau. Đại chúng bộ, Hóa địa bộ, Pháp tạng bộ tuy xưng 4 bộ kinh là ‘4 A-hàm’, xưng Tiểu bộ là Tạp tạng, nhưng cũng thuộc Kinh tạng như vậy,22 điều này đều đã biểu thị sự tôn trọng đối với kệ tụng. Kinh tạng của Thuyết nhất thiết hữu bộ chỉ là ‘4 kinh A-hàm’. Những kệ tụng này, hoặc gọi là Tạp tạng nên lưu truyền bên ngoài Tam tạng, trên mặt lý luận, giống như những truyền thuyết mà ‘các thuyết được truyền lại, hoặc đúng hoặc không đúng’, thì không thể xem là tiêu chuẩn của Phật Pháp. Đại chúng bộ, v.v., nói: “những lời do đức Thế tôn thuyết, không lời nào không như nghĩa,”23 đây là xem tất cả những lời Phật thuyết là liễu nghĩa; truyền rằng kệ tụng của Phật thuyết thì có thể căn cứ theo mặt văn tự để giải thích. Vì vậy không ở đâu không có, không điều gì không biết, không điều gì không thể làm – những điều này là Phật-đà quan siêu hiện thực, thích ứng với nhu cầu của ý thức tôn giáo phổ thông, ở nơi những bài ca tụng của những nhà sáng tác văn tụng, hình thành dần dần.






1 Xin xem tác phẩm của tôi: Nguyên thỉ Phật giáo Thánh điển chi tập thành, tr. 601.
2 Tạp A-hàm kinh 15, T. 2, tr. 101a-c. Tương ưng bộ, Nhân duyên tương ưng, Nam truyền 13, tr. 6-15.
3 Vọng Nguyệt Phật giáo đại từ điển, tr. 693c.
4 Phật bổn hành tập kinh 4, T. 3, tr. 670c-672a.
5 Phật chủng tánh kinh, Nam truyền 41, tr. 219 trở đi.
6 Trung A-hàm kinh 13, Thuyết bổn kinh, T. 1, tr. 509c-511b.
7 Trường A-hàm kinh 6, Chuyển luân thánh vương tu hành kinh, T. 1, tr. 41c-42a. Trường bộ, (26) Chuyển luân thánh vương sư tử hống kinh, Nam truyền 8, tr. 93.
8 Tạp A-hàm kinh 14, T. 2, tr. 95b. Tương ưng bộ, Nhân duyên tương ưng, Nam truyền 13, tr. 67-71. Và, Tạp A-hàm 43, T. 2, tr. 310b. Tăng chi bộ, phẩm 6 pháp, Nam truyền 20, tr. 158-161.
9 Trung A-hàm kinh 13, Thuyết bổn kinh, T. 1, tr. 509c-510c.
10 Cao Tăng truyện 5, T. 50, tr. 353b-c.
11 Duy-viết tạp nạn kinh, T. 17, tr. 608c.
12 1) Cao Tăng truyện 2, T. 50, tr. 334c. 2) Cao Tăng truyện 3, T. 50, tr. 339c. 3) Cao Tăng truyện 11, T. 50, tr. 399a.
13 Trung bộ, (115) Đa giới kinh, Nam truyền 11 hạ, tr. 62. Tăng chi bộ, phẩm 1 pháp, Nam truyền 17, tr. 40.
14 Luận sự, Nam truyền 58, tr. 412-413.
15 Mahāvastu (Đại sự), vol. I. P. 121-123. 
16 Nhập Đại thừa luận, q. hạ, T. 32, tr. 46a.
17 Tăng nhất A-hàm kinh 29, T. 2, tr. 710a.
18 Nhập Đại thừa luận, q. hạ, T. 32, tr. 47a.
19 Phật sở hành tán 3, T. 4, tr. 29a.
20 Tạp A-hàm kinh 34, T. 2, tr. 242a.
1 Trường A-hàm kinh 4, Du hành kinh, T. 1, tr. 27b. Trường bộ, (16) Đại bát-niết-bàn kinh, Nam truyền 7, tr. 148.
2 Phật sở hành tán 5, T. 4, tr. 47c-48a. Phật thùy bát-niết-bàn lược thuyết giáo giới kinh, T. 12, tr. 1110c.
3 Tạp A-hàm kinh 24, T. 2, tr. 176c. Tương ưng bộ, Niệm xứ tương ưng, Nam truyền 16 thượng, tr. 385.
4 Tạp A-tỳ-đàm tâm luận 10, T. 28, tr. 953a.
5 Nghĩa túc kinh, q. hạ, T. 4, tr. 184c-186c.
6 Đại Đường Tây Vực ký 4, T. 51, tr. 893b.
7 Đại thừa Đại nghĩa chương, q. thượng, Tục tạng 96, tr. 5c.
8 Dị bộ tông luân luận, T. 49, tr. 17a.
9 Trường A-hàm 3, Du hành kinh, T. 1, tr. 20c.
10 A-tỳ-đạt-ma Thuận Chánh lý luận 1, T. 29, tr. 331a, 332a.
11 A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận 30, T. 27, tr. 156a-b.
12 Tăng nhất A-hàm kinh 18, T. 2, tr. 637b.
13 Trường A-hàm kinh 2, Du hành kinh, T. 1, tr. 15c. Trường bộ, (16) Đại bát-niết-bàn kinh, Nam truyền 7, tr. 75-76.
14 Căn bản Thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da dược sự 18, T. 24, tr. 94a-97a.
15 Đại trí độ luận 9, T. 25, tr. 122a.
16 Xin xem tác phẩm của tôi: Nguyên thỉ Phật giáo Thánh điển chi tập thành, tr. 520-521.
17 Tạp A-hàm kinh 4, T. 2, tr. 28b. Tăng chi bộ, phẩm 4 pháp, Nam truyền 18, tr. 70.
18 Trung A-hàm kinh 34, Thế gian kinh, T. 1, tr. 645b. Tăng chi bộ, phẩm 4 pháp, Nam truyền 18, tr. 43.
19 Trung A-hàm kinh 29, Long tượng kinh, T. 1, tr. 608c. Tăng chi bộ, phẩm 6 pháp, Nam truyền  20, tr. 90.
20 Xin xem tác phẩm của tôi: Nguyên thỉ Phật giáo Thánh điển chi tập thành, tr. 520-521.
21 A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận 172, T. 27, tr. 866b; và q. 79, tr. 410b; và q. 69, tr. 358b.
22 Xin xem tác phẩm của tôi: Nguyên thỉ Phật giáo Thánh điển chi tập thành, tr. 467-470.
23 Dị bộ tông luân luận, T. 49, tr. 15b.