CHƯƠNG
10. PHÁP MÔN BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT
Tiết 1. Bộ loại của kinh Bát-nhã
Mục 1. Thứ tự biên tập thành của bộ loại kinh Bát-nhã
Bát-nhã ba-la-mật
(prajñāpāramitā)1 là một
trong 6 ba-la-mật – 6 độ. Trong con đường bồ-đề của vị Bồ-tát tu học, bát-nhã
ba-la-mật có địa vị chủ đạo, nên bát-nhã ba-la-mật là thứ có mặt khắp trong tất
cả kinh Đại thừa, có thể nói là bộ phận chủ yếu mà pháp môn Đại thừa không thể
khuyết thiếu được. Trong kinh Đại thừa, có đặc biệt chú trọng bát-nhã ba-la-mật,
xem bát-nhã ba-la-mật là trung tâm để biên tập thành Thánh điển; bộ phận Thánh
điển này cũng đã được lấy làm tên gọi riêng cho ‘kinh Bát-nhã ba-la-mật’, trở
thành một loại lớn trọng yếu trong kinh Đại thừa – Bát-nhã bộ. Bộ loại của kinh
Bát-nhã, thật sự là không ít! Những bộ loại Bát-nhã này, được thấy trên mặt Phật
giáo sử, là ở trong sự tăng lên không ngừng, từ 2 bộ, 3 bộ, 4 bộ, 8 bộ đến 18 bộ
(của Huyền Trang dịch ra đời Đường); về sau vẫn gọi là sự truyền dịch ra kinh
Bát-nhã. Nói đại khái, sự biên tập ra của kinh Bát-nhã là từ sự hưng khởi của
Phật pháp Đại thừa, dài mãi đến thời đại Phật pháp Đại thừa Bí mật được truyền
bá. Đương nhiên, kinh Bát-nhã mà được người ta coi trọng nhất, là kinh thuộc về
thời đại Phật pháp Đại thừa, đặc biệt là bộ phận đại biểu cho Phật pháp Đại thừa
sơ kỳ (giữa thế kỷ 1 B.C., đến cuối thế kỷ 2 A.D.). Nhằm thuyết minh về kinh
Bát-nhã đại biểu cho Đại thừa sơ kỳ, nên trình bày tình hình thứ tự tăng lên
nhiều thêm của kinh Bát-nhã trên mặt Phật giáo sử, cũng có thể suy đoán và xác
định được kinh Bát-nhã đại biểu cho Đại thừa sơ kỳ.
1) Hai bộ :
trên mặt lịch sử của Phật giáo Trung Quốc, sự truyền dịch và truyền thuyết của
kinh Bát-nhã, hẳn phải là từ ‘1 bộ’ đến ‘2 bộ’. Nhưng thời điểm truyền dịch qua
sớm nhất thì chỉ có 1 bộ, không biết còn có kinh Bát-nhã nào khác, cũng không
biết những vấn đề nào phát sanh từ bộ loại của kinh Bát-nhã. Kinh Bát-nhã được
tryền dịch qua sớm nhất là kinh Đạo hành bát-nhã, gồm 10 quyển, 39
chương (phẩm), hoặc gọi là kinh Ma-ha bát-nhã ba-la-mật, vào đời Hán Linh
đế, niên hiệu Quang Hòa năm thứ 2 (179 A.D.).2
Đến đời Ngụy, niên hiệu Cam Lộ năm thứ 5 (260 A.D.), theo truyền thuyết được biết
đã có 2 bộ kinh Bát-nhã, như truyện Chu Sĩ Hành trong quyển 13 của Xuất Tam
tạng ký tập (T. 55, tr. 97a-b) nói:
“Sĩ Hành từng giảng Tiểu phẩm ở Lạc Dương, thỉnh thoảng
không được thông suốt. Ông thường than thở rằng kinh này là cốt tủy của Đại thừa
mà bản dịch thì không nói được hết cái lý của nó. Ông thề quên mình, đi xa để
tìm Đại phẩm. Vào đời Ngụy, niên hiệu Cam Lộ năm thứ 5, ông bèn xuất phát từ
Ung Châu, đi về hướng Tây, vượt qua sa mạc Lưu Sa. Khi đã đến nước Vu Điền, ông
quả đã chép được bản chính tiếng Phạn, bản Hồ gồm 90 chương (phẩm), hơn 600.000
lời. Ông sai đệ tử là Bất Như Đàn, tiếng nước Tấn gọi là Pháp Nhiêu, gồm 10 người
đưa bản Hồ kinh này trở về Lạc Dương… Đưa về đến chùa Thủy Nam, trấn Thương
Viên, huyện Trần Lưu. Ở Hà Nam có cư sĩ Trúc Thúc-lan là người hiểu rành rẽ tiếng
của nước mình, đã dịch ra (thành) kinh Phóng
quang gồm 20 quyển.”
Tiểu phẩm mà Chu Sĩ Hành giảng tại Lạc Dương chính là
kinh Đạo hành Bát-nhã. Bộ kinh này,
người xưa bình luận rằng “từ đầu chí cuối của kinh Đạo hành này rất sâu sắc, các bậc Hiền ngày xưa khi luận về nó thì
luôn luôn bị vướng mắc.”3 Sĩ Hành
biết có bản đầy đủ hơn của kinh Bát-nhã nên đến Vu Điền để tìm. Cho đến đời Tấn
niên hiệu Nguyên Khang năm thứ 5 (295 A.D.), Trúc Thúc-lan dịch ra kinh Phóng quang Bát-nhã,4
tương đương với kinh Đạo hành Bát-nhã,
người xưa bèn gọi chúng là Đại phẩm và Tiểu phẩm. Hai bộ này có bộ phận giống nhau,
người xưa thì tin rằng Tiểu phẩm được sao chép ra từ Đại phẩm, như Đạo hành kinh tự của Đạo An (312 A.D. –
385 A.D.) nói: “Sau khi Phật nê-viết, có bậc cao sĩ người ngoại quốc sao chép
90 chương làm thành Đạo hành phẩm.”5 Đại tiểu phẩm đối tỉ yếu sao tự của Chi
Đạo Lâm (314 A.D. – 366 A.D.) nói: “Các bậc học giả đi trước cùng truyền lại rằng:
Sau khi Phật niết-bàn, từ trong Đại phẩm sao chép ra thành Tiểu phẩm.”6 Tên gọi của Đại phẩm và Tiểu phẩm truyền
mãi về sau. Trong phần bổn quyển 27 (hoặc 24) của kinh Ma-ha Bát-nhã-ba-la-mật
do Cưu-ma-la-thập dịch gọi là Tân đại phẩm
kinh; phần bổn của quyển 10 thì gọi là Tân
tiểu phẩm kinh.7 Đại phẩm và Tiểu phẩm
cũng chính là bản đầy đủ và bản tóm gọn của kinh Bát-nhã.
2. ‘Ba bộ’, ‘Bốn bộ’: Vào thời đại Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva) đến Trung Hoa (khoảng 401 A.D. – 415 A.D.), giới Phật
giáo Trung Quốc đã được biết có 3 bộ kinh Bát-nhã, như quyển 67 luận Đại trí độ (được dịch ra trong những năm
402 A.D. – 405 A.D.) (T. 25, tr. 529b) nói:
“Số lượng kinh quyển cùng thuộc loại Bát-nhã-ba-la-mật
thì có nhiều, có ít, có thượng, trung, hạ - Quang
tán, Phóng quang, Đạo hành.”
Kinh Bát-nhã mà luận Trí
độ đề cập, có thượng, trung, hạ, cũng chính là Quang tán Bát-nhã, Phóng
quang Bát-nhã, Đạo hành Bát-nhã.
Luận Trí độ còn đề cập đến: “Số kinh
quyển và chương cú của các bộ Bát-nhã ba-la-mật như Tiểu phẩm, Phóng quang, Quang tán, v.v., thì có giới hạn, có số
lượng, nhưng ý nghĩa của bát-nhã ba-la-mật thì vô lượng.”8
Nhận xét này so với nhận xét đã dẫn ở trên thì nội dung hoàn toàn phù hợp, chỉ
là thứ tự ngược nhau một chút. Tiểu phẩm mà nằm ngoài Quang tán, Phóng quang,
chính là kinh Đạo hành. Quang tán của Hán dịch hiện còn 10 quyển,
là bản còn thiếu. Nhưng thời xưa có truyền thuyết rằng: “Quang tán có 500 quyển, ở đất này [Trung Quốc] bị mất chỉ còn 10
quyển.”9 Thuyết nói Quang tán gồm 500 quyển có khả năng là truyền thuyết xa xưa của
Bát-nhã gồm 100.000 bài tụng. Quyển 100 của luận Đại trí độ (T. 25, tr. 756a) nói:
“Phẩm trung Bát-nhã ba-la-mật này có 22.000 bài kệ; phẩm
lớn của Bát-nhã có 100.000 bài kệ. ”
Kinh Bát-nhã có 100.000 bài kệ là phẩm thượng trong 3 phẩm,
luận Đại trí độ gọi nó là Quang tán. Luận Đại trí độ là bản chú thích của kinh Bát-nhã, bản kinh mà luận này
căn cứ - 22.000 bài kệ, chính là Tân đại phẩm kinh do Cưu-ma-la-thập dịch; cùng
với Phóng quang Bát-nhã do Trúc
Thúc-lan dịch và Quang tán bị thiếu
do Trúc Pháp Hộ dịch đều là phẩm trung trong 3 phẩm. Ba bộ Bát-nhã là ngoài 2 bộ
- Đại phẩm, Tiểu phẩm ra còn có 1 bộ khác gồm 100.000 bài kệ. Long Thọ (Nāgārjuna) viết luận Đại
trí độ vào đầu thế kỉ 3 A.D., bấy giờ tại Ấn-độ đã có 3 bộ kinh Bát-nhã;
nhưng khi truyền thuyết đến Trung Quốc thì đã vào đầu thế kỉ 5 A.D. Nhưng, nếu
như chấp nhận thuyết Quang tán có 500
quyển thì thời điểm Trúc Pháp Hộ dịch ra Quang
tán (286 A.D.), giới Phật giáo Trung Quốc có khả năng đã nghe nói qua ‘3 bộ
Bát-nhã’.
Thuyết ‘4 bộ’ thấy trong Bài tựa của Tiểu phẩm kinh của Tăng Duệ (T.
8, tr. 537a):
“Chánh văn của kinh này
có tổng cộng 4 loại, là do Phật thuyết vào những thời điểm khác nhau nhằm thích
hợp để giáo hóa nên có chi tiết hay ngắn gọn khác nhau. Loại nhiều thì [nghe]
nói có 10.000 bài kệ; loại ít thì có 600 bài kệ. Đại phẩm này chính là Trung phẩm
của Thiên Trúc vậy. Tùy nghi mà nói thì cần gì phải so đo chúng là nhiều hay
ít!”
Tăng Duệ vốn là đệ tử của
Đạo An, về sau trở thành môn nhân của La-thập. La-thập dịch Tân tiểu phẩm kinh, 7 quyển (hiện tại
chia làm 10 quyển) vào niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ 10 (408 A.D.). Tăng Duệ viết
bài Tựa cho Tiểu phẩm, trong ấy nói rằng kinh Bát-nhã có 4 bộ, chính là ngoài 3
bộ có thêm 1 bộ gồm 600 bài kệ. Quyển 1 của Kim
cang Bát-nhã sớ (T. 33, tr. 86b), Cát Tạng nói:
“Có người nói: cần phải lấy
Kim cang bổ túc thêm vào 3 bộ trước để
thành bộ. Nhưng Kim cang chỉ có khoảng
300 bài kệ, Duệ công nói bộ nhỏ thời có 600 bài kệ nên phải biết rằng không cần
dùng Kim cang để bổ túc vào.”
Bấy giờ Kim cang Bát-nhã
cũng là do La-thập dịch ra, ngoài 3 bộ ấy thêm vào Kim cang Bát-nhã, hợp thành
4 bộ là điều rất có khả năng, chỉ là số bài kệ ít hơn nhiều.
3. ‘Tám bộ’: Vào niên hiệu
Vĩnh Bình nguyên niên (508 A.D.) đời Bắc Ngụy, Bồ-đề-lưu-chi (Bodhiruci) đến
Trung Quốc, đã dịch ra kinh Kim cang
Bát-nhã ba-la-mật, 1 quyển và Kim
cang Bát-nhã ba-la-mật kinh luận, 3 quyển. Bộ luận này do Thế Thân (Vasubandhu)
viết, Lưu-chi lại căn cứ vào bộ luận thích của Thế Thân, viết Kim cang tiên luận, 10 quyển. Kim cang tiên luận nói có ‘8 bộ
Bát-nhã’, cũng chính là số bộ loại Bát-nhã mà Bồ-đề-lưu-chi truyền thuyết lại,
như quyển 1 của luận này (T. 25, tr. 798a) nói:
“Tám bộ Bát-nhã dùng 10 ý
nghĩa giải thích để đối trị 10 thứ. Trong đó, bộ thứ nhất gồm 100.000 bài kệ (là Đại phẩm); bộ thứ hai gồm 25.000 bài kệ (là Phóng
quang); bộ thứ ba gồm 18.000
bài kệ (là Quang tán); bộ thứ tư gồm 8000 bài kệ (là Đạo
hành); bộ thứ năm gồm 4000 bài
kệ (là Tiểu phẩm); bộ thứ sáu gồm 2.500 bài kệ (là Thiên
vương vấn); bộ thứ bảy gồm 600 bài
kệ (là Văn-thù); bộ thứ tám gồm 300 bài
kệ (tức là bộ Kim cang Bát-nhã này).”
Phần chữ nhỏ trong đoạn văn trên của luận là được người
sau thêm vào, nhằm suy đoán ‘8 bộ Bát-nhã’ để chủ thích phía dưới. Cho nên liên
quan đến ‘8 bộ Bát-nhã’, các truyền thuyết của người đời sau đều gần với nhau, mà
xác định chắc chắn đó là những kinh gì, thì như luận Kim cang tiên đã nói trên;
những thuyết mà Kim cang Bát-nhã kinh sớ
của Trí Giả;10 Kim cang Bát-nhã sớ của Cát Tạng;11
Giải thâm mật kinh sớ của Viên Trắc12 đã nói, thì các thuyết này khác biệt
nhau tương đối nhiều. Kỳ thật, số kệ tụng ít nhiều và thứ tự của 7 bộ đầu
trong ‘8 bộ Bát-nhã’ đều phù hợp với 7 hội đầu trong 16 hội của kinh Đại Bát-nhã. Bộ thứ tám gồm 300 bài kệ
là Năng đoạn Kim cang phần, thứ 9, trong 16 hội. Lấy ‘8 bộ Bát-nhã’ so sánh với
10 hội đầu trong kinh Đại Bát-nhã thì
thấy thiếu Na-già-thất-lợi phần, thứ 8 và Lý thú Bát-nhã phần, thứ 10. Lý thú
Bát-nhã phần và Bí mật Đại thừa có
liên quan nhau; vào đầu thế kỷ 6 A.D., đại khái vẫn chưa thành lập. Na-già-thất-lợi
phần và kinh Nhu-thủ Bồ-tát vô thượng
thanh tịnh phần vệ bản dịch cũ tương đương nhau, nhưng bản dịch cũ không gọi
là ‘kinh Bát-nhã’, người xưa cũng không xem nó thuộc bộ loại của Bát-nhã. Bộ
kinh này mà được biên tập vào bộ loại của Bát-nhã, tại Ấn-độ có lẽ là việc về
sau.
4. ‘Mười sáu hội’: Vào niên hiệu Trinh Quán năm thứ 19
(645 A.D.) đời Đường, Huyền Trang từ Ấn-độ trở về nước. Niên hiệu Hiển Khánh
năm thứ 5 (660 A.D.), ngài bắt đầu phiên dịch kinh Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa – kinh Đại Bát-nhã, toàn bộ bản Phạn gồm 200.000 bài tụng, chia làm 16 hội,
dịch thành 600 quyển, nội dung như sau:
Hội 1
|
100.000 bài tụng
|
400 quyển
|
Dịch mới
|
|
Hội 2
|
25.000 bài tụng
|
78 quyển
|
Dịch lại
|
|
Hội 3
|
18.000 bài tụng
|
59 quyển
|
Dịch mới
|
|
Hội 4
|
8.000 bài tụng
|
18 quyển
|
Dịch mới
|
|
Hội 5
|
4.000 bài tụng
|
10 quyển
|
Dịch lại
|
|
Hội 6
|
2.500 bài tụng
|
8 quyển
|
Tối Thắng thiên vương phần
|
Dịch lại
|
Hội 7
|
800 bài tụng
|
2 quyển
|
Văn-thù-thất-lợi phần
|
Dịch lại
|
Hội 8
|
400 bài tụng
|
1 quyển
|
Na-già-thất-lợi phần
|
Dịch lại
|
Hội 9
|
300 bài tụng
|
1 quyển
|
Năng đoạn Kim cang phần
|
Dịch lại
|
Hội 10
|
300 bài tụng
|
1 quyển
|
Bát-nhã lý thú phần
|
Dịch mới
|
Hội 11
|
2.000 bài tụng
|
5 quyển
|
Bố thí ba-la-mật-đa phần
|
Dịch mới
|
Hội 12
|
2.000 bài tụng
|
5 quyển
|
Tịnh giới ba-la-mật-đa phần
|
Dịch mới
|
Hội 13
|
400 bài tụng
|
1 quyển
|
An nhẫn ba-la-mật-đa phần
|
Dịch mới
|
Hội 14
|
400 bài tụng
|
1 quyển
|
Tinh tấn ba-la-mật-đa phần
|
Dịch mới
|
Hội 15
|
800 bài tụng
|
2 quyển
|
Tĩnh lự ba-la-mật-đa phần
|
Dịch mới
|
Hội 16
|
2.500 bài tụng
|
8 quyển
|
Bát-nhã ba-la-mật-đa phần
|
Dịch mới
|
Kinh Đại Bát-nhã
gồm 16 hội do Huyền Trang dịch có thể chia thành 3 loại lớn. Năm phần đầu là loại
thứ 1: 3 phần đầu tuy chi tiết hay ngắn gọn khác nhau rất lớn, nhưng nội dung đều
tương đồng với Đại phẩm mà thuyết xưa đã nói. Phần 4 và phần 5 là loại Tiểu phẩm
mà thuyết xưa đã nói. Hai loại này, về đoạn văn và nội dung đều có bộ phần giống
nhau, là sự tách ra của cùng một nguyên bản. Năm phần giữa (6-10) là loại thứ
2: đây là 5 bộ kinh khác biệt nhau; từ Huyền Trang trở về trước đã từng dịch ra
4 bộ đầu (6-9), chỉ có Bát-nhã lý thú phần là dịch mới. Bộ Bát-nhã lý thú phần này
có liên quan với Bí mật Đại thừa, xưa
tuy không có truyền dịch nhưng về sau lại truyền dịch ra không ngừng. Sự biên tập
ra của kinh điển có thời đại trước sau, đây là điều đã có thể chứng minh được. Sáu
phần sau là loại thứ 3: đây là từ lập trường của pháp môn Bát-nhã, đem 6
ba-la-mật-đa biên tập ra khác nhau.
Bộ loại Bát-nhã theo truyền thuyết ở Trung Quốc là từ (1
bộ) 2 bộ, 3 bộ, 4 bộ, 8 bộ, đến 16 bộ, đã cho thấy sự phát triển không ngừng của
kinh Bát-nhã. Nếu như trên phương diện lịch sử dịch kinh tại Trung Quốc để xét,
thì đầu tiên là bản ngắn gọn, bản chi tiết, rồi sau là Nhu-thủ Bát-nhã, Kim cang
Bát-nhã, Văn-thù Bát-nhã, Thắng thiên vương Bát-nhã, đến đời Đường
mới dịch ra Lý thú Bát-nhã, v.v., đã phản ánh thứ tự truyền ra của kinh Bát-nhã
tại Ấn-độ.
Mục 2.
Các bộ loại Bát-nhã hiện còn
Kinh Bát-nhã truyền
bá mà được bảo tồn về sau, chủ yếu là các bản dịch Hoa văn, còn có bản dịch Tạng
văn và bộ phận bản Phạn. Ở trong đây trình bày sơ lược thêm, xem như là căn cứ để
luận cứu về sự thành lập và phát triển của kinh Bát-nhã Đại thừa sơ kỳ.
1. Hạ phẩm
Bát-nhã (căn cứ theo
thuyết có 3 bộ, gọi là hạ - trung – thượng của luận Đại trí độ): đây là loại Tiểu phẩm được truyền tại Trung Quốc thời
cổ đại. Bản dịch Hoan văn hiện còn, tổng cộng có 7 bộ:
1) Đạo hành Bát-nhã kinh
|
10 quyển
|
Hậu Hán, Chi-(lâu-ca)-sấm dịch
|
2) Đại minh độ kinh
|
6 quyển
|
Ngô, Chi Khiêm dịch
|
3) Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật sao kinh
|
5 quyển
|
Tiền Tần, Đàm-ma-bi cùng Trúc
Phật Niệm dịch?
|
4) Tiểu phẩm Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh
|
10 quyển
|
Hậu Tần, Cưu-ma-la-thập dịch
|
5) Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh (phần 4)
|
18 quyển
|
Đường, Huyền Trang dịch
|
6) Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh (phần 5)
|
10 quyển
|
Đường, Huyền Trang dịch
|
7) Phật thuyết Phật mẫu xuất sanh tam pháp tạng Bát-nhã ba-la-mật-đa
kinh
|
25 quyển
|
Tống, Thi Hộ dịch
|
Trong 7 bộ thuộc
loại Hạ phẩm, 1) kinh Đạo hành Bát-nhã được
dịch ra vào niên hiệu Quang Hòa năm thứ 2 đời Hán Linh Đế (179 A.D.), là bản
kinh Bát-nhã được dịch ra xưa nhất trong Hoa văn. Nhưng ghi chép trong Xuất Tam tạng ký tập, là bản mục lục
kinh điển sớm nhất, có tồn tại mâu thuẫn. Ngoài bản gồm 10 quyển do Chi-sấm (Lokarakṣa) dịch ra, lại nói kinh Đạo hành,
1 quyển, do Trúc Sóc-Phật dịch ra vào thời Linh Đế, Đạo An đã “viết lời tựa để chú thích nó.”1 Đây là viết cho bản 10 quyển của Chi-sấm
dịch hoặc cho bản 1 quyển của Trúc Sóc-Phật (hoặc gọi là Trúc Phật-sóc). Nhưng Đạo hành kinh tự của Đạo An, nói: “Bậc
cao sĩ người ngoại quốc đã sao chép 90 chương (Đại phẩm) thành phẩm Đạo hành;
vào đời Hoàn, Linh, Sóc-Phật mang đến kinh sư, dịch ra Hán văn.” Lại nữa, Đạo hành kinh hậu ký nói: “Vào ngày mồng
8 tháng 10 niên hiệu Quang Hòa năm thứ 2, tại thành Lạc Dương ở Hà Nam, Mạnh
Nguyên Sĩ nhận truyền miệng (nguyên tác gọi là ‘trao’) từ Bồ-tát Trúc Sóc-Phật người
nước Thiên Trúc, bấy giờ người truyền ngôn – (người) dịch là Bồ-tát Chi-sấm người
nước Nguyệt Chi.2 Dường như bản 10 quyển
là do hai người kết hợp dịch. Đạo An viết ‘bài tựa để chú thích’ cho kinh Đạo hành bản 1 quyển; phẩm Đạo hành của
kinh Đại minh độ do Chi-khiêm dịch hiện
còn có phụ thêm phần chú thích, hẳn đây chính là phần chú của Đạo An. Nhưng đây
là căn cứ theo kinh Đại minh độ để
chú, không khớp với bản 10 quyển của Chi-khiêm dịch. Hiện nay chỉ còn bản 10
quyển, thông thường xem là do Chi-khiêm dịch. Bộ kinh Đạo hành Bát-nhã này, về sau tôi gọi tắt là ‘bản Hán dịch’.
2) Kinh Đại minh độ,
Xuất Tam tạng ký tập chép “Kinh Đại minh độ, 4 quyển, hoặc gọi là kinh Đại minh độ vô cực.”3 Dịch giả của bộ kinh này, trong kinh lục
có không ít thuyết khác nhau.4 Nhưng dịch
âm thiếu, văn tự lại ngắn gọn, có đặc tính phù hợp với bản dịch của Chi-khiêm, gọi
tắt là ‘bản Ngô dịch’.
3) Kinh Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật sao, có ghi rằng
“Đời Phù Tần, sa-môn Đàm-ma-bi (Dharmapriya) người Thiên
Trúc cùng Trúc Phật Niệm dịch.” Quá trình dịch
ra kinh này, như Ma-ha Bát-la-nhã ba-la-mật
kinh sao tự trong quyển 8 của Xuất
Tam tạng ký tập (T. 55, tr. 52b) nói:
“Đúng vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ 18, Tiền
bộ vương của nước Xa-sư tên là Di-đệ đến triều. Quốc sư của nước ấy tên tự là
Cưu-ma-la-bạt-đề dâng một bộ Đại phẩm tiếng Hồ, 402 điệp [tờ], nói gồm 20.000
thủ-lô [śloka – bài kệ]. Một thủ-lô gồm 32 chữ, là phương pháp đếm kinh của người
Hồ. Vua liền sai đếm để kiểm tra thì có tổng cộng 17.260 thủ-lô, mất 27 chữ,
tính tổng lại được 552.475 chữ. Sa-môn Đàm-ma-bi người Thiên Trúc cầm bản Phạn,
Phật Hộ làm người dịch, đối chiếu kể kiểm tra, Huệ Tấn bút thọ. Bản này so với
Phóng quang và Quang tán, chỗ nào giống nhau thì không có thêm bớt. Chỗ nào người
dịch của 2 kinh này bị mất thì tùy theo chỗ mất, cân nhắc để sửa lại cho đúng.
Nếu ý nghĩa nào khác nhau mà không biết là bản nào đúng thì liền đều ghi ra để giữ
lại, luôn luôn làm chú thích ở phía dưới. Tổng cộng gồm 4 quyển, nếu 1 trang hoặc
2 trang khác biệt thì tách riêng ra thành 1 quyển, hợp lại thành 5 quyển.”
Tân tập kinh luận lục trong quyển 2 của Xuất Tam tạng ký tập (T. 55, tr. 10b) nói:
“Ma-ha Bát-la-nhã
ba-la-mật đinh sao, 5 quyển,… Vào đời vua Giản Văn Đế nhà Tấn, sa-môn
Đàm-ma-bi người Thiên Trúc cầm bản Đại phẩm tiếng Hồ, Trúc Phật Niệm dịch ra.”
Ma-ha Bát-la-nhã
ba-la-mật đinh sao, 5 quyển, dịch giả tuy có thuyết khác nhau về Phật Hộ và
Trúc Phật Niệm nhưng đều do Đàm-ma-bi cầm bản ‘Đại phẩm tiếng Hồ’. Kinh Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật sao hiện còn, nội
dung là Tiểu phẩm, rõ ràng không khớp với thuyết ‘cầm Đại phẩm tiếng Hồ’, cho
nên Khai Nguyên Thích giáo lục hoài
nghi lời của Đạo An nói, nên nói “hoặc e là mới tìm thấy điều đó mà chưa xét kỹ.”5 Bản Phạn mà Cưu-ma-la-bạt-đề (Kumāra-buddhi) dâng gồm ‘402 điệp’, ‘tổng cộng 17.260 thủ-lô,
mất 27 chữ’, Đạo An nói chính xác như vậy, thì không thể sai lầm. Theo Sao tự của Đạo An, đây là bản rút tỉa ra
mà không phải là phiên dịch toàn bộ. Đàm-ma-bi, v.v., căn cứ vào bản Phạn Đại
phẩm gồm 20.000 bài tụng, đối chiếu với Phóng
quang và Quang tán. Nếu như đoạn
nào tương đồng thì không dịch lại. Nếu 2 kinh có chỗ nào bị mất thì dịch ra
thêm. Nếu như văn nghĩa bất đồng mà không thể xác định được thì ‘giữ lại cả
hai’ – ngoài bản cựu dịch, còn dịch ra bản mới, lại luôn luôn chú thích thêm. Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh sao hoàn
toàn không phải là phiên dịch toàn bộ của Đại phẩm, mà chỉ là ‘kinh sao - rút tỉa
kinh’, cũng chính là ‘bản ghi lại khi đối chiếu của từng đoạn từng đoạn, cho
nên chỉ có 4 quyển hoặc 5 quyển. Bộ Kinh
sao này sớm đã bị mất. Bản hiện còn mà được gọi là Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật sao kinh, nội dung là Tiểu phẩm. Chúng kinh mục lục của Pháp Kinh, v.v., soạn
vào đời Tùy, nói: Trúc Pháp Hộ từng dịch ta Tân
Đạo hành kinh gồm, 10 quyển, một tên gọi khác là Tân Tiểu phẩm kinh, hoặc 7 quyển.”6
Nghiên cứu về Nguyên thỉ Bát-nhã,
theo lời bác sĩ Suzuki,(a) suy
đoán Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật sao kinh hiện
còn đó là do Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Đông Tấn.”7 Ma-ha
Bát-nhã ba-la-mật sao kinh hiện còn, không chỉ là thuộc loại Tiểu phẩm, vả
lại vẫn là bản thị thiếu. Văn tự sử dụng rất nhiểu của ‘bản Hán dịch’, dùng ‘bản
Hán dịch’ để đối chiếu, thì thấy ở khoảng giữa phẩm Thanh tịnh thuộc quyển 3 và
phẩm Bổn vô thuộc quyển 4 của Sao kinh
đã thiếu mất phẩm Thán, phẩm Trì, phẩm Giác, phẩm Chiếu minh, phẩm Bất khả kế,
phẩm Thí dụ, phẩm Phân biệt – 7 phẩm. Từ phẩm Thích-đề-hoàn-nhân trở đi lại thiếu
mất phẩm Cống cao, phẩm Học, phẩm Thủ hành, phẩm Cường nhược, phẩm Lụy giáo, phẩm
Bất khả tận, phẩm Tùy, phẩm Tát-đà-ba-lôn, phẩm Đàm-mô-kiệt, phẩm Chúc lụy – 10
phẩm. Tổng cộng thiếu 17 phẩm, ước chừng khoảng 5 quyển. Cho nên bản Sao kinh 5
quyển hiện còn, có thể suy ra một cách xác định là do Trúc Pháp Hộ dịch. Không
biết vì sao, có lẽ là có quan hệ với ‘5 quyển’, cuối cùng đã bị truyền lại sai
lầm rằng Kinh sao là do Đàm-ma-bi,
v.v., dịch! Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật sao kinh
là do Trúc Pháp Hộ dịch, về sau gọi tắt là ‘bản Tần dịch’.
4) Kinh Ma-ha
Bát-nhã ba-la-mật, hoặc gọi là kinh Tiểu
phẩm Bát-nhã ba-la-mật, 10 quyển, do Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva) dịch vào niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ 10 đời
Diêu Tần (408 A.D.), nay gọi tắt là ‘bản Tần dịch’.
5) Kinh Đại Bát-nhã
ba-la-mật-đa, phần thứ 4 (bắt đầu từ quyển 538 đến quyển 555), gồm 18 quyển.
6) Kinh Đại Bát-nhã
ba-la-mật-đa, phần thứ 5 (bắt đầu từ quyển 556 đến quyển 565), gồm 10 quyển.
Đây là kinh Đại Bát-nhã do Đường Huyền
trang dịch, tương đồng với Tiểu phẩm; là phần thứ 4 và phần thứ 5 trong 16 phần.
Nay gọi tắt là ‘bản Đường dịch phần 4’, ‘bản Đường dịch phần 5’.
7) Kinh Phật thuyết
Phật mẫu xuất sanh tam pháp tạng Bát-nhã ba-la-mật-đa, 25 quyển, Thi Hộ (Dānapāla) dịch, ước chừng dịch sau niên hiệu Thái Bình
Hưng Quốc năm thứ 7 đời Tống (982 A.D.), gọi tắt là ‘bản Tống dịch’.
Ngoài 7 bản dịch
Hoa văn này ra, bản Tạng dịch thuộc về Kinh Bát-nhã, ‘Tiểu phẩm’, cũng có 2 bộ:
1. Bản 10.000 bài tụng do Thắng Hữu (Jinamitra) dịch: Ḥphags-pa Śes-rab-kyi pha rol-tu phyin-pa
khri-pa zhes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo. 2. Bản 8000 bài kệ do Thích-ca-quân (Śākya-sena), Trí Thành Tựu (Jñāna-siddhi), v.v., dịch: Ḥphags-pa Śes-rab-kyi pha rol-tu phyin-pa
brgyad-stoṅ-pa zhes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo. Về phương diện bản Phạn, có bản 8000 bài tụng do Ni-bạc-nhĩ
[Nepal] truyền: Aṣṭasāhasrikāprajñā-pāramitā,
số lượng thật sự là 8.190 bài tụng.8
Nếu như đem 7 bộ của bản
dịch Hoa văn, 2 bộ của bản dịch Tạng văn và 1 bộ của Phạn văn mà so sánh sự giống
và khác nhau giữa chúng9 thì có
thể chia thành 2 loại: bản Đường dịch phần 4, bản Tống dịch của Hoa văn và bản
Phạn văn là một loại. Bản Đường dịch phần 4 có 29 phẩm, nếu như nhập thêm vào
hay lược bỏ đi phẩm Thường đề, phẩm Pháp
dũng, phẩm Chúc lụy, thì tổng cộng gồm 32 phẩm, phù hợp với bản Tống dịch và bản
Phạn văn. Bản Hán dịch, bản Ngô dịch, bản Tấn dịch, bản Tần dịch và bản Đường dịch
phần 5, tuy số phẩm về sơ lược có sai biệt, nhưng văn nghĩa thì gần nhau. Từ số
lượng bài tụng của 2 bản dịch Tạng văn để nói, thì dường như là dịch ra bất đồng
với bản Đường dịch phần 4. Chí Nguyên
pháp bảo khám đồng tổng mục lục xem bản 10.000 bài tụng của Tạng dịch là
tương đồng với bản Đường dịch phần 4; bản 8.000 bài tụng tương đồng với bản Đường
dịch phần 5,10 thì e rằng chưa hẳn
chính xác! Bản Đường dịch phần 5 được dịch thành 10 quyển, không thể có 8.000
bài tụng.
2. Trung phẩm Bát-nhã: kinh
Bát-nhã thuộc về Trung phẩm có tổng cộng 5 bộ được dịch ra Hoa văn. 1) Kinh Quang tán Bát-nhã ba-la-mật: như Hợp Phóng quang, Quang tán lược giải tự
do Đạo An viết thuộc quyển 7 của Xuất Tam
tạng ký tập (T. 55, tr. 48a), nói:
“Về Quang tán,
Hộ công cầm bản Hồ, Nhiếp Thừa Viễn bút thọ… [Hận vì kinh] bị mất, đến đất
Lương năm 911 thì vừa viên tịch. Khi đến được nước này thì kinh đã bị mất không
còn đầy đủ… Gặp gỡ Huệ Thường, Tấn Hành, Huệ Biện, v.v., sắp đi đến Thiên Trúc,
trên đường ngang Kinh Châu, chép lại để làm tài liệu. Lần lượt đến châu Ung của
nước Tần. Vào ngày 24 tháng 5 niên hiệu Thái Nguyên nguyên niên nhà Tần, mới
đưa đến Tương Dương.”
Kinh Quang tán
Bát-nhã là do Trúc Pháp Hộ dịch ra vào niên hiệu Thái Khang năm thứ 7 (286
A.D.), nhưng bấy giờ không lưu thông, hình như đã bị mất. Về sau phát hiện tại
Lương Châu, mới sao chép “đưa đến Tương Dương, trao cho sa-môn Đạo An.” Không
chỉ đã trải qua 91 năm, mà bản hiện còn gồm 10 quyển, 27 phẩm (đã mất 2 phần 3)
là bản bị thiếu. Bộ bị thiếu này, nay gọi tắt là ‘bản Quang tán’.
2) Kinh Phóng quang
Bát-nhã ba-la-mật: đây là bản Chu Sĩ Hành tìm được ở Vu Điền, dịch thành 20
quyển, 90 phẩm. Quan quá trình truyền dịch, như Phóng quang kinh hậu ký thuộc quyển 7 của Xuất Tam tạng ký tập (T. 55, tr. 47c) nói:
“Chu Sỹ Hành… đi về hướng Tây đến nước Vu Điền, chép được
bản Phạn của chánh phẩm. Bản Hồ có 90 chương, hơn 600.000 từ. Vào niên hiệu
Thái Khang năm thứ 3, ông sai đệ tử là Phất Như Đàn, tiếng nước Tấn gọi là Pháp
Nhiễu đưa kinh bản Hồ này đến Lạc Dương. Phất Như Đàn ở lại đó 3 năm, sau lại đến
Hứa Xương. Hai năm sau, đưa đến chùa Thủy Nam, trấn Thương Viên, huyện Trần
Lưu. Vào ngày 15 tháng 5 niên hiệu Nguyên Khang nguyên niên, các bậc Hiền giả
cùng tập hợp lại hội nghị để dịch sang tiếng nước Tấn. Bấy giờ, người cầm bản Hồ
là sa-môn Vô-xoa-la người nước Vu Điền; ưu-bà-tắc Trúc Thúc Lan khẩu truyền (dịch);
Chúc Thái Huyền, Chu Huyền Minh cùng bút thọ… Đến ngày 24 tháng 12 năm ấy thì
chép xong… Đến ngày 15 tháng 11 niên hiệu Thái An năm thứ 2, sa-môn Trúc Pháp Tịch
đến chùa Thủy Bắc ở trấn Thương Viên để tìm bản kinh này. Khi chép lại thì tìm
được 5 bộ còn rất tốt, đều là bản Hồ, ngài với Trúc Thúc Lan lại hiệu đính và
chép lại, đến ngày mồng 2 tháng 4 niên hiệu Vĩnh An nguyên niên thì hoàn thành.”
Vào niên hiệu Thái Khang năm thứ 3 (282 A.D.), bản kinh
này đã được đưa đến Lạc Dương; niên hiệu Nguyên Khang nguyên niên (291 A.D.) mới
dịch ra tại chùa Thủy Nam ở trấn Thương Viên; đến niên hiệu Vĩnh An nguyên niên
(304 A.D.) mới hiệu đính thành định bản. Bản Phạn có ‘hơn 600.000 từ’, ước chừng
khoảng 19.000 bài tụng, nay gọi tắt là ‘bản Phóng
quang’.
3) Kinh Ma-ha
Bát-nhã ba-la-mật: niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ 5 (404 A.D.) đời Dao Tần,
Cưu-ma-la-thập dịch tại vường Tiêu dao, nay thành 30 quyển. Thao luận Đại trí độ, bản Phạn gồm có 22.000 bài tụng,
nay gọi tắt là ‘bản Đại phẩm’.
4) Kinh Đại Bát-nhã
ba-la-mật-đa, phần thứ 2: bắt đầu từ niên hiệu Hiển Khánh năm thứ 5 đến
niên hiệu Long Sóc năm thứ 3 (660 A.D. – 663 A.D.), Huyền Trang dịch xong toàn
bộ kinh Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa,
chia thành 16 phần, gồm 600 quyển. Trong ấy, phần thứ 2 bắt đầu từ quyển 401 đến
quyển 478, gồm 78 quyển, nay gọi tắt là ‘bản Đường dịch phần 2’.
5) Kinh Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa, phần thứ 3: bắt đều từ
quyển 479 đến quyển 537, gồm 59 quyển, gọi tắt là ‘bản Đường dịch phần 3’.
Bản dịch Tạng văn thuộc loại Trung phẩm cũng có 2 bộ: 1) Śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-pa
stoṅ-phrag-ñi-śu-lṅa-pa, theo Chí
Nguyên pháp bảo khám đồng tổng lục, thì bản này tương đồng với bản Đường dịch
phần 2.11 2) Ḥphags-pa
Śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-pa khri-brgyad -stoṅ-pa shes-bya-ba theg-pa
chen-poḥi mdo, theo Chí Nguyên pháp bảo
khám đồng tổng lục, thì bản này tương đồng với bản Đường dịch phần 3.12
Bản Phạn thuộc về Trung phẩm Bát-nhã thì hiện nay còn Pañcaviṃśatisāhasrika-prajñāpāramitā, tức kinh Bát-nhã gồm 25.000 bài tụng, tương đương với bản
Đường dịch phần 2.
3. Thượng phẩm Bát-nhã: là phần đầu của kinh Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa do Huyền Trang dịch, được dịch thành 400
quyển, chính là bản 100.000 bài tụng trong truyền thuyết. Theo Trinh Nguyên tân định Thích giáo mục lục,
bản Phạn thật sự là 132.600 bài tụng,13 nay gọi tắt là ‘bản Đường dịch phần đầu’.
Bát-nhã 100.000 bài tụng được dịch sang Tạng văn có tên là: Śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-pa
stoṅ-phrag-brgya-pa, theo Chí Nguyên pháp bảo khám đồng tổng lục,
thì bản này tương đồng với bản Đường dịch phần đầu.14 Bát-nhã 100.000 bài tụng (Śatasāhasrikāprajñāpāramitā) mà bản Phạn
hiện còn, theo R. Mitra, người hiệu đính và in bản Phạn của Bát-nhã 8.000 bài tụng,
thấy rằng bản Phạn chia thành 4 phần: phần 1 gồm 26.960 bài tụng, phần 2 gồm
35.259 bài tụng, phần 2 gồm 24.800 bài tụng, phần 4 gồm 26.650 bài tụng; 4 phần
này tổng cộng gồm 113.677 bài tụng.15
4) Kim cang Bát-nhã: đây là bộ kinh Bát-nhã được lưu thông thịnh
hành nhất. Có tổng cộng 6 bộ dịch thành Hoa văn: 1) Cưu-ma-la-thập dịch vào đời
Dao Tần. 2) Bồ-đề-lưu-chi (Bodhiruci) dịch vào
niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 2 (509 A.D.) đời Ngụy. 3) Chân Đế (Paramārtha) dịch vào năm Nhâm Ngọ (562 A.D.) đời Trần.
Ba bộ này đều có tên là kinh Kim cang
Bát-nhã ba-la-mật, mỗi bộ 1 quyển. 4) Đạt-ma-cấp-đa (Dharmagupta) dịch vào niên hiệu Khai Hoàng năm thứ 10
(590 A.D.) đời Tùy, gọi là kinh Kim cang
năng đoạn Bát-nhã ba-la-mật, 1 quyển. 5) Huyền Trang dịch vào niên hiệu
Trinh Quán năm thứ 22 (648 A.D.) đời Đường, gọi là kinh Năng đoạn Kim cang Bát-nhã ba-la-mật-đa, 1 quyển; biên tập vào kinh
Đại Bát-nhã, quyển 577, tức Năng đoạn Kim cang phần, thứ 9. 6) Nghĩa Tịnh dịch
tại chùa Tây Minh vào niên hiệu Trường An năm thứ 3 (703 A.D.) đời Đường (thời
Võ hậu), gọi là kinh Năng đoạn Kim cang
Bát-nhã ba-la-mật-đa, 1 quyển. Ngoài những bản dịch sang tiếng Hoa ra, còn
có các bản dịch sang Tạng ngữ. Trong đó, bản dịch trong ấn bản Đức-cách (Derge)
phù hợp với bản dịch của Bồ-đề-lưu-chi, đặc biệt là bản của Chân Đế. Nhưng bản
dịch được biên tập vào trong ấn bản Bắc Kinh thì lại gần với bản dịch của Đạt-ma-cấp-đa,
đặc biệt là bản của Huyền Trang. Kinh này cũng còn bản Phạn. A. Stein đã phát hiện được bản dịch Vu Điền trong động
Thiên Phật ở Đôn Hoàng.16 Căn cứ
vào bản dịch Hoa văn để luận, thì bản dịch của Bồ-đề-lưu-chi, bản dịch của Chân
Đế, bản dịch của Đạt-ma-cấp-đa, bản dịch của Huyền Trang, bản dịch của Nghĩa Tịnh
– 5 bộ, đều thuộc về truyền thừa của hệ Du-già, có liên quan với Kim cang kinh luận thích của Vô Trước (Asaṅga),
Thế Thân (Vasubandhu).
5. Na-già-thất-lợi Bát-nhã: Na-già-thất-lợi phần, thứ 8, gồm 1 quyển, là quyển 576 của
kinh Đại Bát-nhã dịch đời Đường.
Trong lịch sử dịch kinh tại Trung Quốc, bộ kinh này được dịch ra rất sớm, như Tân
tập tục soạn thất dịch tạp kinh lục trong quyển 4 của Xuất Tam tạng ký tập (T. 55, tr. 21c) nói:
“Kinh Nho-thủ Bồ-tát vô thượng thanh tịnh phần vệ,
2 quyển (một tên gọi khác là kinh Quyết
liễu chư pháp như huyễn hóa tam-muội).”
Mất tên người dịch nhưng
“chưa thấy được kinh văn của nó”, lại có kinh Nhu-thủ Bồ-tát, quyển, chú thích: “Nghi rằng kinh này chính là kinh
Nhu-thủ Bồ-tát phần vệ.”17 Bộ này chỉ nghe nói tên kinh mà không
thấy được kinh văn, Tăng Hựu suy đoán đó chính là kinh Nho-thủ Bồ-tát vô thượng thanh tịnh phần vệ. Chúng kinh mục lục của Pháp Kính, v.v., đời Tùy, nói chỉ có 1 bản,
do “sa-môn Thích Tường Công đời Tống dịch ở Nam Hải.”18 Lịch
đại Tam bảo kỷ lại chia thành 2 bộ: một bộ là do Nghiêm Phật Điều dịch vào
đời Hậu Hán;19 một bộ là “vào đời Tống,
không rõ năm, chưa rõ là dịch vào đời vua nào. Quần Lục Trực chú rằng: Sa-môn
Thích Tường Công dịch ra ở quận Nam Hải.”20
Thuyết nói có 2 bộ của Lịch đại Tam bảo kỷ
nói đương nhiên không đủ để tin; truyền thuyết nói là do Tường Công dịch
vào đời Tống cũng chưa hẳn đáng tin. Từ ngôn ngữ dịch của kinh Nhu-thủ Bồ-tát vô thượng thanh tịnh phần vệ
để nói, thì tuy tương đối mạch lạc, rõ ràng, nhưng dịch ‘như thị ngã văn’ là ‘văn
như thị’, Văn-thù-sư-lợi dịch là ‘Nhu-thủ’, Khẩn-na-la dịch là ‘Chân-đà-la’, vô
sanh pháp nhẫn dịch là ‘cái nhẫn của pháp lạc không từ đâu sanh’, v.v., thì có
đặc trưng của các dịch phẩm vào đời Tấn (từ La-thập trở về trước), không thể là
được dịch vào đời Tống. Có lẽ vì lý do như vậy nên Lịch đại Tam bảo kỷ mới có phỏng đoán là do Nghiêm Phật Điều dịch.
Đây là vào đời Đông Tấn, ‘người dịch bị mất tên’ gần với với thời đại của La-thập.
Thời cổ đại, bộ kinh này không được xem thuộc về bộ Bát-nhã. Đây là kinh Đại thừa
sơ kỳ, tư tưởng gần với Bát-nhã, nhưng hoàn toàn chẳng lấy bát-nhã làm chủ đề. Vào
thời đại Bồ-đề-lưu-chi truyền thuyết có ‘8 bộ Bát-nhã’, bộ kinh này vẫn chưa được
biên tập vào hệ thống kinh Đại Bát-nhã.
6. Văn-thù Bát-nhã: Bản dịch hoa văn của kinh này có 3: 1) Do Mạn-đà-la tiên
(Mandra) dịch vào niên hiệu Thiên Giám năm thứ 5 đời Lương, tên là kinh Văn-thù-sư-lợi sở thuyết ma-ha Bát-nhã
ba-la-mật, hoặc gọi là kinh Văn-thù
Bát-nhã ba-la-mật, 2 quyển. 2) Do Tăng-già-bà-la (Saṃghavarman) dịch vào đời
Lương, tên là kinh Văn-thù-sư-lợi sở
thuyết Bát-nhã ba-la-mật, 1 quyển. Tăng-già-bà-la ban đầu tham dự dịch trường
của Mạn-đà-la tiên; sau khi Mạn-đa-la tiên viên tịch, lại căn cứ vào bản Phạn của
Mạn-đà-la tiên để dịch lại. 3) Kinh Đại
Bát-nhã ba-la-mật-đa (quyển 574-575), phần thứ 7 – Mạn-thù-thất-lợi phần,
do Huyền Trang dịch vào đời Đường. Bản của Mạn-đà-la tiên thì “phần kinh văn đầu
không có 10 lớp ánh sáng, phần kinh văn sau có nhất hành tam-muội;” bản của
Tăng-già-bà-la thì “phần kinh văn đầu có 10 lớp ánh sáng, phần kinh văn sau
không có nhất hành tam-muội.”21 Bản dịch
của Huyền Trang phù hợp với bản của Mạn-đà-la tiên. Bản dịch của Mạn-đà-la tiên
được biên tập thành hội thứ 46 của kinh Đại
bảo tích. Bộ kinh này củng có bản dịch Tạng ngữ và bản Phạn. Văn-thù
Bát-nhã là lấy bát-nhã ba-la-mật làm chủ đề, trở thành một bộ kinh điển độc lập.
Nhưng đặc biệt xem trọng chúng sanh giới, ngã giới, Như lai giới, Phật giới,
pháp giới, bất tư nghị giới, đã biểu lộ đặc sắc của Phật pháp Đại thừa hậu kỳ.
Nhưng vẫn còn trong quá trình diễn tiến, chưa đạt đến giai đoạn của thuyết Như
lai tạng (hoặc Như lai giới), Phật tánh (Phật giới).
7. Thắng thiên vương Bát-nhã: Thiên vương vấn
Bát-nhã đã từng được nói đến trong thuyết có ‘8 bộ Bát-nhã’ do Bồ-đề-lưu-chi
truyền. Đến niên hiệu Thiên Gia năm thứ 6 (565 A.D.) đời Trần, Nguyệt-bà-thủ-na
(Upa-śūnya) mới dịch thành Hoa văn, gọi là kinh Thắng thiên vương Bát-nhã ba-la-mật. Bản Phạn của bộ kinh này do
sa-môn Cầu-na-bạt-đà-la (Guṇabhadra) từ nước Vu Điền mang đến Kiến Nghiệp vào
niên hiệu Thái Thanh năm thứ 2 (548 A.D.) đời Lương.22 Toàn bộ kinh này gồm 16 phẩm, chia
thành 7 quyển. Thắng thiên vương Bát-nhã tương đương với phần thứ 6 của kinh Đại
Bát-nhã ba-la-mật-đa do Huyền Trang dịch vào đời Đường; bản dịch đời Đường chia
thành 8 quyển (bắt đầu từ quyển 566 đến quyển 573), 17 phẩm.23
Kinh Thắng thiên vương Bát-nhã ba-la-mật có liên quan đến hai bộ kinh,
có thể nói là được hình thành do tập hợp từ hai bộ kinh (và một bộ kinh khác),
hai bộ này chính là kinh Bảo vân và
kinh Vô thượng y. Kinh Bảo vân trước sau có tổng cộng 4 bản dịch:
1) Kinh Bảo vân, 7 quyển, do Mạn-đà-la
tiên dịch vào niên hiệu Thiên Giám năm thứ 2 (503 A.D.) đời Lương. 2) Kinh Đại thừa Bảo vân, 7 quyển, do Mạn-đà-la
tiên cùng Tăng-già-bà-la dịch vào đời Lương.24
3) Kinh Bảo vũ, 10 quyển, do Đạt-ma-lưu-chi
(Dharmaruci) dịch vào đời Đường.25 4)
Kinh Phật thuyết Trừ Cái Chướng Bồ-tát sở
vấn, 20 quyển, do Thi Hộ, v.v., dịch vào đời Triệu Tống. Bốn bộ này là cùng
một nguyên bản mà bản dịch khác nhau, trong kinh nói đến: Bồ-tát Trừ Cái Chướng
từ thế giới phương Đông đến, đã nêu ra một trăm lẻ mấy mấy đề, từ “làm sao Bồ-tát
có đầy đủ về sự bố thí?”, “làm sao Bồ-tát nhanh chóng thành tựu a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề?”
Đối với mỗi vấn đề, Phật đều dùng ‘10 pháp’ để giải đáp, thể tài gần với kinh Hoa nghiêm. Sau cùng, chư thiên tán
thán, cúng dường, tường thuật về chuyện của thiên nữ thần núi Già-da tên là Trường
Thọ (hoặc gọi là Bất Tử); cuối cùng tán thán, khuyến khích thọ trì. Trong đó,
điểm bất đồng là: phần cuối cùng kinh Đại
thừa Bảo vân đã bị thiếu đoạn thiên nữ Trường Thọ, trái ngược nhiều với phẩm
Bảo tích. Nội dung của phẩm Bảo tích tương đồng với kinh Cổ Bảo tích (hội Phổ Minh Bồ-tát của kinh Đại Bảo tích), đây là lấy kinh Cổ
Bảo tích làm phẩm, nhưng thêm vào phần cuối của bộ kinh này. Kinh Bảo vũ, ở sau đoạn Phật phóng quang từ
trên đỉnh đầu, có xen vào chuyện của thiên tử Nguyệt Quang. Phật dự ký rằng: “Ngươi
sẽ đạt được địa vị a-tì-bạt-trí, tại nước Ma-ha Chi-na ở phương Đông Bắc của
châu Thiệm Bộ. Ngươi thật sự là Bồ-tát mà hiện thân nữ, làm Tự tại chủ (vua),
trải qua nhiều năm, dùng chánh pháp để cai trị và dạy dỗ.”26 Người dịch kinh này là vào niên hiệu Đại
Chu Trường Thọ năm thứ 2 [693 A.D.] của hoàng đế Võ Tắc Thiên; nữ vương được thọ
ký vốn là Nam Ấn-độ,27 người
dịch gặp lúc nữ chúa xưng đế nên liền biên tập vào trong kinh Bảo vũ, từ Nam Ấn-độ đã chuyển thành Đại
Trung Quốc ở Đông Bắc. Nói trở lại về kinh Vô
thượng y, 2 quyển, do Chân Đế dịch vào niên hiệu Thiệu Thái năm thứ 3 (557
A.D.), toàn kinh chia thành 7 phẩm: phẩm Hiệu lượng công đức, phẩm Như lai giới,
phẩm Bồ-đề, phẩm Như lai công đức, phẩm Như lai sự, phẩm Tán thán, phẩm Chúc lụy.
Phẩm thứ nhất – Hiệu lượng công đức vốn là một bộ kinh điển độc lập, so với
kinh Vị tằng hữu mất tên người dịch, kinh Thậm
hi hữu do Huyền Trang dịch là cùng nguyên bản mà bản dịch khác nhau; nội
dung là xưng tán, cúng dường xá-lợi Phật, công đức tạo tháp. Xá-lợi của Phật
cũng được gọi là đà-đô của Phật, đà-đô của Như lai. Đà-đô (dhātu) dịch là giới,
cho nên xá-lợi của Phật cũng được gọi là Phật giới hoặc Như lai giới. Cũng
chính vì lý do như vậy nên từ Như lai giới của xá-lợi Phật, nói đến Như lai giới
có cùng ý nghĩa với Như lai tạng. Phẩm Như lai giới của kinh vô thượng y nói thể
tánh của Như lai giới (nơi địa vị chúng sanh) cũng được gọi là chúng sanh giới.
Phẩm Bồ-đề trình bày việc nương vào Như lai giới tu hành để đắc bồ-đề. Phẩm này
nói về các thứ công đức của quả Phật; nương vào công đức của Phật để khởi lên
nhiều thứ ứng dụng. Từ phẩm Như lai giới đến phẩm Như lai sự (nghiệp), đã trình
bày có thứ tự theo hệ thống đối với thuyết Như lai tạng.
Căn cứ theo kinh Bảo vân và kinh Vô thượng y để so sanh với kinh Thắng
thiên vương Bát-nhã ba-la-mật (16 phẩm) thì thấy tương đồng về nội dung, vì
lý do như thế này. 1) Phẩm Thông đạt của kinh Thắng thiên vương Bát-nhã ba-la-mật:
phần dẫn nhập đầu tiên nói về các Bồ-tát ở 10 phương, như Bồ-tát Ly Chướng ở
phương Đông, v.v., vân tập đến, tiếp theo trả lời rằng nương vào bát-nhã để tu
10 ba-la-mật. 2) Phẩm Hiện tướng: từ ‘như địa’ đến ‘thường làm Pháp sư, thuyết
pháp khéo léo’. 3) Phẩm Pháp giới: đầu tiên trả lời về ‘thông đạt pháp giới’,
‘viễn ly các thứ tướng’, đến ‘biết con đường tà chánh’. Dưới phần ‘viễn ly các
thứ tướng’, Thắng thiên vương Bát-nhã
có nhiều hơn một đoạn “bấy giờ mọi người đều đạt được lợi ích.” 4) Phẩm Niệm xứ:
từ ‘tâm chánh bất loạn’ đến ‘lực oai thần của Như lai’. Bốn phẩm ở trên phù hợp
với kinh Bảo vân.28 5) Phẩm Pháp tánh: từ đầu phẩm đến “thực
hành bát-nhã ba-la-mật, thông đạt pháp tánh sâu xa như vậy,”29 phù hợp với phẩm Như lai giới của kinh
Vô thượng y, như nói:30
“Ở bên trong ấm, giới, nhập
của các chúng sanh có cái thể pháp tánh thanh tịnh từ vô thỉ liên tục [đến nay]
không bị ô nhiễm. Tất cả tâm thức không thể duyên vào để khởi, các thứ giác
quán [tầm tư] khác không thể phân biệt, tư duy bằng tà niệm cũng không thể
duyên vào. Pháp này lìa tà niệm, không khởi vô minh, vì vậy không sanh từ 12
duyên, nên gọi là vô tướng; thế nên nó không phải là pháp được làm ra, không có
sanh, không có diệt, không có giới hạn, không có tận cùng, tự tướng của nó là
thường trụ.”
“Tất cả chúng sanh đều có
ấm, giới, nhập, có chủng loại tướng thù thắng, biểu hiện ở trong ngoài, trôi chảy
liên tục từ thời vô thỉ, cái pháp như vậy đạt đến chỗ thiện trong sáng, vi diệu.
Nơi đây, hoặc là tâm ý thức không thể duyên vào để khởi, giác quán phân biệt
không thể duyên vào để khởi, cái tư duy bất chánh không thể duyên vào để khởi.
Hoặc tách rời tư duy bất chánh, pháp này không khởi lên vô minh; nếu không khởi
vô minh thì là pháp chẳng phải do 12 hữu phần [chi] khởi duyên [duyên khởi[; nếu
chẳng do 12 hữu phần khởi duyên thì là pháp vô tướng. Nếu cái vô tướng thì đó
là pháp chẳng do làm ra, không có sanh, không có diệt, không có giảm, không có
tận cùng, là thường, là hằng, là vắng lặng, là [thường] trụ.”
Đoạn cuối của phẩm Pháp
tánh, từ “thông đạt thế đế” đến “tu các hạnh như vậy, đắc a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề,”31 lại là giải đáp vấn đề trong kinh Bảo vân. Tiếp theo, chư thiên tán thán sự
cúng dường, đến tán thán sự thọ trì – kết thúc phẩm Pháp tánh, cũng đều phù hợp
với kinh Bảo vân. 6) phẩm Bình đẳng,
7) phẩm Hiện tướng, 8) phẩm Vô sở đắc, 9) phẩm Chứng khuyến, 10) phẩm Thuật đức,
11) phẩm Hiện hóa, 12) phẩm Đà-la-ni, 13) phẩm Khuyến thỉnh – 8 phẩm, của kinh Thắng thiên vương Bát-nhã ba-la-mật là
được tập hợp từ một bộ kinh Đại thừa khác. Trong kinh văn đã đề cập đến Xá-lợi-phất,
thiên tử Tu-chân-chi, đồng tử Thiện tư duy, Văn-thù-sư-lợi, v.v., trong bản
kinh Đại thừa được dịch sang Hoa văn hiện còn, hẳn là có thể so sánh nhận ra được.
14) Phẩm Nhị hành: đây lại là kinh Vô thượng
y. Mười nghĩa trong phẩm Bồ-đề của kinh Vô
thượng y tương đương với “năm là làm việc, sáu là nhiếp phục các tướng, bảy
là nơi thực hành, tám là thường trụ, chín là không chung cùng, mười là không thể
dùng tư duy biết được,” và phần lớn phẩm Như lai công đức (đến chỗ 80 tướng hảo
thì dừng). 15) Phẩm Tán thán: phần kệ tụng để tán thán thì phù hợp với phẩm Tán
thán của kinh Vô thượng y. 16) Phẩm
Phó chúc: “có 10 phương pháp để thọ trì tu-đa-la [kinh] này,” phù hợp với phẩm
Chúc lụy của kinh Vô thượng y. Từ sự
so sánh ở trên, ta thấy kinh Thắng thiên
vương Bát-nhã ba-la-mật là do được biên tập từ kinh Bảo vân, kinh Vô thượng y và
một bộ kinh Đại thừa khác mà thành. Nó thuộc về Đại thừa hậu kỳ, đó là điều rõ
ràng có thể nhận thấy được!
8. Lý thú Bát-nhã: kinh điển liên quan với Bát-nhã lý thú thì có đến vài bộ,
người xưa hoặc cho chúng là cùng bản, hoặc cho chúng là các bản khác nhau.32 Thật ra có thể chia làm 3 loại: loại
thứ nhất là: 1) Bát-nhã lý thú phần, thứ 10 của kinh Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa (quyển 578) do Huyền Trang dịch đời Đường.
2) Do Bồ-đề-lưu-chí (Bodhiruci) dịch vào niên hiệu Trường Thọ năm thứ 2 (693
A.D.) đời Đường, gọi là kinh Thật tướng
Bát-nhã ba-la-mật, 1 quyển. 3) Do Bất Không (763-771) dịch vào đời Đường, tên
kinh Đại lạc kim cang bất không chân thật
tam-muội-da, 3 quyển; Trinh Nguyên lục gọi là Lý thú Bát-nhã thích.33 Ba bộ
này phần lớn giống nhau, chỉ có phần cuối bản dịch của Huyền Trang có nhiều hơn
3 thứ thần chú; nhưng bản do Bồ-đề-lưu-chí và Bất Không dịch thì mỗi đoạn đều
có phụ thêm ‘nghĩa của từ’. Loại thứ hai là: 4) Do Kim Cang Trí (Vajrabodhi) dịch,
gọi là kinh Kim cang đảnh du-già lý thú
Bát-nhã, 1 quyển. 5) Do Thi Hộ (982 A.D.-?) dịch vào đời Triệu Tống, gọi là
kinh Biến chiếu Bát-nhã ba-la-mật, 1
quyển. Hai bộ này về đại thể thì tương đồng với Lý thú phần của kinh Đại Bát-nhã, nhưng đoạn cuối lại nói nhiều
về “25 pháp môn bí mật lý thú của bát-nhã-ba-la-mật sâu xa,” cũng chính là 25
thứ chân ngôn. Loại thứ 3 là: 6) Kinh Tối
thượng căn bản đại lạc kim cang bất không tam-muội đại giáo vương, 7 quyển,
25 phần, do Pháp Hiền (? – 1001) dịch vào đời Triệu Tống. Từ phần đầu đến đầu
phần 14: “chứng đắc viên mãn đại tam-muội kim cang bất không làm căn bản cho
pháp môn bát-nhã ba-la-mật-đa của tất cả Như lai” thì dừng,34 về đại thể phù hợp với Lý thú phần của
bản dịch đời Đường, nhưng ở mỗi phân đoạn đã thêm vào “nghi pháp đi vào mạn-đà-la.”
Từ đây trở về sau đều là các pháp nghi tu trì do Kim Cang Thủ tuyên thuyết. Bát-nhã
lý thú phần trong kinh Đại Bát-nhã
ba-la-mật-đa là thuộc về Đại thừa Bí mật. Như nói: “thần chú đại lạc kim
cang bất không;” “nghĩa là, thành tựu tối thắng đại tham, v.v., khiến cho đại Bồ-tát
thành tựu tối thắng đại lạc; thành tựu tối thắng đại lạc khiến đại Bồ-tát thành
tựu tối thắng đại giác của tất cả Như lai.”35
Đây không phải rõ ràng là từ đại tham đắc được đại lạc, từ đại lạc mà thành Phật
ư? Ứng dụng ý nghĩa của kinh Bát-nhã để xây dựng thừa Bí mật lấy đại lạc làm
căn bản. Căn cứ vào kinh này để thực hiện tu trì trong thật tế thì kinh thuộc
loại thứ hai đã đạt đến pháp môn tối thượng căn bản đại lạc kim cang bất không
tam-muội của loại thứ ba.
9. Sáu phần ba-la-mật-đa: kinh Đại Bát-nhã
ba-la-mật-đa do Huyền Trang dịch, từ phần 11 đến phần 16, gọi là Bố thí
ba-la-mật-đa phần, tịnh giới ba-la-mật-đa phần, an nhẫn ba-la-mật-đa phần, tinh
tấn ba-la-mật-đa phần, tĩnh lự ba-la-mật-đa phần, bát-nhã ba-la-mật-đa phần. Sáu
ba-la-mật-đa được biên tập thành 6 bộ riêng biệt. Bố thí phần gồm 5 quyển, Tịnh
giới phần gồm 5 quyển, An nhẫn phần gồm 1 quyển, Tinh tấn phần gồm 1 quyển,
Tĩnh lự phần gồm 2 quyển, Bát-nhã phần gồm 8 quyển: 6 bộ có tổng cộng 22 quyển
(bất đầu từ quyển 579 đến quyển 600). Bát-nhã ba-la-mật-đa phần trong 6 phần ấy
có bản dịch Tạng văn, cũng có bản Phạn văn.36
Bộ Bát-nhã ba-la-mật-đa phần này, tại Ấn-độ, đã nhận được sự xem trọng. Như luận
Bát-nhã đăng do Ba-la-phả-ca-la-mật-đa-la
(Prabhākaramitra) dịch ra vào niên hiệu Trinh Quán năm thứ 6 đời Đường, là bản
giải thích luận Trung quán do Thanh
Biện (Bhāvaviveka) trước tác. Trong bộ luận này, cuối mỗi phẩm đều dẫn kinh để
chứng minh cho nghĩa của luận, dường như mỗi phẩm đều lời Phật thuyết cho Bồ-tát
Cực Dũng Mãnh, chính là rút ra từ bộ Bát-nhã ba-la-mật-đa phần này.
10. Bát-nhã tâm kinh: trong kinh Bát-nhã, đây là bài kinh ngắn được truyền tụng
rất thịnh hành trong dân gian. Bản dịch ra Hoa văn cũng rất nhiều, hiện này còn
7 bản. 1) Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật đại
minh chú kinh, suy đoán là do Cưu-ma-la-thập (401 A.D.) dịch vào đời Dao Tần.
2) Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm kinh do
Huyền Trang dịch vào niên hiệu Trinh Quán năm thứ 23 (644 A.D.) đời Đường.
3) Phổ biến trí tạng Bát-nhã ba-la-mật-đa
tâm kinh, do Pháp Nguyệt (Dharmacandra) dịch vào niên hiệu Khai Nguyên năm
thứ 26 (738 A.D.) đời Đường. 4) Bát-nhã ba-la-mật-đa
tâm kinh, do Bát-nhã (Prajnā), v.v., dịch vào niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ
6 (790 A.D.) đời Đường. 5) Bát-nhã
ba-la-mật-đa tâm kinh, do Trí Huệ Luân (Prajñācakra) dịch vào niên hiệu Đại
Trung năm thứ 13 (859 A.D.) đời Đường. 6) Bát-nhã
ba-la-mật-đa tâm kinh, do Pháp Thành dịch vào những năm giữa niên hiệu Đại
Trung (847 A.D. – 859 A.D.) đời Đường, đây là bản kinh được phát hiện vào thời
cận đại từ động đá Đôn Hoàng. 7) Phật
thuyết Thánh Phật mẫu Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh, do Thi Hộ dịch vào thời Tống
Thái Tông (982 A.D. - ?). Ngoài ra cũng có bản dịch Tạng văn và bản Phạn
văn; Trung Quốc có truyền song song bản Bát-nhã tâm kinh do Huyền Trang dịch thẳng
từ Phạn âm.
Chủ thể của các bản dịch
khác nhau của Hoa văn ấy đều gần với nhau. Bản dịch của La-thập và Huyền Trang
không có phần tự và lưu thông, nhưng các bản dịch từ thế kỷ 8 A.D. trở đi thì đều
có đầy đủ phần tự, chánh văn, lưu thông – 3 phần. Các bản dịch của Bát-nhã, Trí
Huệ Luân, Pháp Thành, Thi Hộ đều có phần tự và lưu thông tương đồng nhau; chỉ
có phần tự trong bản dịch của Pháp Nguyệt có nhiều hơn một đoạn Bồ-tát Quán Tự
Tại thỉnh thuyết kinh này. Người xưa xem bộ kinh này là “kinh rút tỉa ra từ Đại
phẩm.”37 Thật ra, bộ kinh này lấy kinh văn của
Trung phẩm Bát-nhã làm hạt nhân, rồi kết hợp phụ thêm tín ngưỡng của thế tục.
“Này Xá-lợi-phất!... không có trí cũng không có sự đắc” là rút ra từ phẩm Tập
ưng của bản Đại phẩm.38 “Bát-nhã
ba-la-mật là minh chú lớn, là minh chú vô thượng, là minh chú không có gì sánh
bằng” là rút ra từ phẩm Khuyến trì của bản Đại phẩm.39 Lấy kinh văn của Trung phẩm Bát-nhã
làm hạt nhân để nêu bật “Bồ-tát Quán Thế Âm,” nói “vượt qua tất cả khổ ách,”
“có khả năng trừ tất cả khổ” để nối kết thông suốt với tín ngưỡng về Bồ-tát
Quán Thế Âm cứu giúp khổ nạn. ‘Minh chú lớn’, v.v., trong kinh Bát-nhã là tán
thán công năng và ứng dụng của bát-nhã, bây giờ thì thành “liền thuyết chú rằng.”
Đây là bộ kinh điển thành lập sau Trung phẩm Bát-nhã, thích ứng với thế tục,
chuyển hóa bát-nhã để hợp thành một dòng với tín ngưỡng thần bí của thế tục.
11. Các bộ loại khác: những kinh được biên tập vào bộ Bát-nhã còn có vài thứ:
1) Kinh Nhân vương hộ quốc Bát-nhã ba-la-mật, 2
quyển, lưu truyền ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ 5 A.D. Truyền thuyết nói do La-thập
dịch, đây là điều đáng nghi.40 Vào
niên hiệu Vĩnh Thái nguyên niên (765 A.D.), Bất Không (Amoghavajra) dịch ra kinh
Nhân vương hộ quốc Bát-nhã ba-la-mật-đa,
2 quyển, văn nghĩa gần nhau, chỉ là có nhiều hơn bài chú đà-la-ni tiêu tai và hộ
quốc.41
2) Kinh Liễu nghĩa Bát-nhã ba-la-mật-đa, là bài
kinh ngắn, do Thi Hộ (982 A.D. - ?) dịch vào đời Tống. Phần đầu là một phần
của Trung phẩm Bát-nhã, Phật bảo Xá-lợi-phất (Śāriputra) rằng: Bồ-tát “phải tu
tập bát-nhã ba-la-mật.” Phần sau “cần phải đoạn trừ 10 thứ nghi hoặc,”42 là giải thích quan trọng của học giả
Du-già đối với pháp môn Bát-nhã.
3) Kinh Ngũ thập tụng Thánh Bát-nhã ba-la-mật,
là bài kinh ngắn, do Thi Hộ (982 A.D. - ?) dịch vào đời Tống, tóm gọn ý
nghĩa tổng quát của pháp môn “bát-nhã trình bày chi tiết về ba thừa” của Trung
phẩm Bát-nhã.
4) Kinh Khai giác tự tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa,
5 quyển, do Duy Tịnh (1009-1021) dịch. Kinh trên nói đến ‘3 tánh’: “sắc là vô
tánh, giả tánh, thật tánh; thọ-tưởng-hành-thức vô tánh, giả tánh, thật tánh.”43 Lại nữa, quyển 1 của kinh này (T. 8,
tr. 855b) nói:
“Nếu có người nói rằng:
như lời Phật đã dạy, sắc (v.v.,) không có tự tánh, không sanh không diệt, xưa
này vắng lặng, tự tánh của nó là niết-bàn. Người nào nói như vậy thì kẻ đó
không có sự hòa hợp đối với tất cả pháp, cũng không có lạc dục. Tùy theo lời
nói đó, có sự hiểu biết như vậy của kẻ đó, Ta nói rằng kẻ đó là ở ngoài của
trong và ngoài, là kẻ dị sanh ngu phu ở trong phần vị tà kiến.”
Theo kinh này nói, nếu
như chiếu theo lời của Phật thuyết, cho rằng sắc, v.v., không có tự tánh, không
sanh không diệt, thì đó chính là ‘ở ngoài của trong và ngoài, là kẻ dị sanh ngu
phu ở trong phần vị tà kiến’. Nhất định phải nói rằng: các pháp như sắc, v.v.,
là có [tồn tại], mới có thể “có sự đoạn trừ, có sự hiểu biết ở trong sắc kia,”
“ở trong sự thực hành đại lạc mà thường tùy chuyển.”44 Quan điểm này không chỉ tùy thuận với
Hữu tông, mà còn là dẫn đi vào ‘sự thực hành đại lạc’ của Bí mật thừa.
5) Kinh Phật mẫu tiểu tự Bát-nhã ba-la-mật-đa do
Thiên Tức Tai (982 A.D.- ?) dịch vào đời Tống; 6) kinh Quán tưởng Phật mẫu Bát-nhã ba-la-mật-đa Bồ-tát
do Thiên Tức Tai dịch; 7) kinh Đế Thích
Bát-nhã ba-la-mật-đa do Thi Hộ dịch. Ba bộ này đều là những bộ kinh ngắn, đều
có chứa chân ngôn bí mật. Vào thời đại ấy, Phật giáo Ấn-độ đều chịu sự ảnh hưởng
của Đại thừa Bí mật.
Trong 11 loại lớn được
trình bày ở trên, những loại đại biểu cho pháp Đại thừa sơ kỳ là Hạ phẩm, Trung
phẩm, Thượng phẩm và Năng đoạn Kim cang phần. Tác phẩm này sẽ y cứ vào kinh
Bát-nhã thuộc Đại thừa sơ kỳ này để nghiên cứu về dòng chính của pháp môn Đại
thừa sơ kỳ.
1 Bát-nhã ba-la-mật, dịch mới gọi là
bát-nhã ba-la-mật-đa. Dịch nghĩa là ‘trí độ’, ‘minh độ’, ‘huệ độ’, ‘huệ đáo bỉ
ngạn’. Ba-la-mật, cựu dịch là ‘độ’, cổ dịch là ‘độ vô cực’.
2 Căn cứ theo Xuất Tam tạng ký tập 2, T. 55, tr. 6b.
3 Đạo
hành kinh tự của Đạo An, xin xem Xuất
Tam tạng ký tập 7, T. 55, tr. 47b.
4 Về phương diện Lương Châu, vào niên hiệu
Thái Khang năm thứ 7 đời nhà Tấn (286 A.D.), Trúc Pháp Hộ cũng dịch ra kinh Quang tán có cùng nguyên bản với kinh Phóng quang.
5 Xuất
Tam tạng ký tập 7, T. 55, tr. 47b.
6 Xuất
Tam tạng ký tập 8, T. 55, tr. 55b.
7 Xuất
Tam tạng ký tập 2, T. 55, tr. 10c.
8 Đại
trí độ luận 79, T. 25, tr. 620a.
9 Cát Tạng, Kim cang Bát-nhã sớ 1, T. 33, tr. 86b.
10 Trí Khải [Zhiyi – Trí Di?], Kim cang Bát-nhã kinh sớ, T. 33, tr. 76a.
11 Cát Tạng, Kim cang Bát-nhã sớ 1, T. 33, tr. 86c.
12 Viên Trắc, Giải thâm mật kinh sớ 5, Tục tạng 34, tr. 412a.
1 Xuất
Tam tạng ký tập 2, T. 55, tr. 6b.
2 Xuất
Tam tạng ký tập 7, T. 55, tr. 47b-c.
3 Xuất
Tam tạng ký tập 2, T. 55, tr. 7a.
4 Tham khảo: Kajiyoshi Kōun (梶芳光運), Nguyên
thỉ Bát-nhã kinh chi nghiên cứu, tr. 62-76.
5 Khai
Nguyên Thích giáo lục 4, T. 55, tr. 511a.
6 (Đời Tùy) Chúng kinh mục lục 1, T. 55, tr. 119b.
(a) 鈴木 大拙 貞太郎 - Suzuki Daisetsu Teitarō.
7 Kajiyoshi Kōun (梶芳光運), Nguyên thỉ Bát-nhã kinh chi nghiên cứu,
tr. 83-87.
8 Xem: Kajiyoshi Kōun (梶芳光運), Nguyên
thỉ Bát-nhã kinh chi nghiên cứu, tr. 99-100.
9 Các bản
này đều không thể hoàn toàn khế hợp nhau, nhưng có thể từ những bất đồng chủ yếu
để đối chiếu.
10 Chí Nguyên pháp bảo khám đồng tổng mục lục 1, Súc loát
tạng kết, tr. 45.
11 Chí Nguyên pháp bảo khám đồng tổng mục lục 1, Súc loát
tạng kết, tr. 45.
12 Như chú
thích trên.
13 Trinh Nguyên tân
định Thích giáo mục lục 20, T. 55, tr. 910b.
14 Chí Nguyên pháp bảo khám đồng tổng mục lục 1, Súc loát
tạng kết, tr. 45.
15 Xem: Kajiyoshi Kōun (梶芳光運), Nguyên
thỉ Bát-nhã kinh chi nghiên cứu, tr. 127-128.
16 Vọng Nguyệt
Phật giáo đại tự điển, tr. 1347b-c.
17 Xuất Tam tạng
ký tập 4, T. 55, tr. 32a.
18 (Đời Tùy) Chúng
kinh mục lục 1, T. 55, tr. 115b.
19 Lịch đại
Tam bảo kỷ 4, T. 49, tr. 54a.
20 Lịch đại
Tam bảo kỷ 10, T. 49, tr. 93c.
21 Khai Nguyên
Thích giáo lục 11, T. 55, tr. 583b-c.
22 Đại Đường nội
điển lục 5, T. 55, tr. 274a.
23 Tình hình thực tế của Thiên vương Bát-nhã thì người
xưa không rõ ràng nên các thuyết khác nhau rất nhiều. Như Kim cang Bát-nhã sớ (T. 33, tr. 86b-c) của Cát Tạng cho rằng “Đại bản của
Thiên vương Bát-nhã không đến [Trung Quốc],” nên nói 3 bộ gồm Tu-chân thiên tử vấn Bát-nhã, v.v., “hoàn
toàn là rút ra từ trong ấy.” Nhưng trong Đại
phẩm kinh du ý (Tục tạng 38, tr. 7c) lại thêm vào Văn-thù-sư-lợi vấn Bát-nhã, Tư
Ích phạm-chí vấn Bát-nhã, tổng cộng thành 5 bộ.
24 Ở đây là căn cứ vào tạng Đại chánh để nói. Nhưng trước
Khai Nguyên Thích giáo lục không có
ghi chép về 2 người cùng dịch. Từ Lịch đại
Tam bảo kỷ về sau lại có kinh Đại thừa
Bảo vân, 8 quyển, là do Tu-bồ-đề (Subhūti) dịch vào đời Trần, những đã bị mất.
25 Theo Đại Chu
sanh định chúng kinh mục lục 4, T. 55, tr. 396b, nói: “Vào niên hiệu Trường
Thọ năm thứ 2 (693 A.D.) đời Đại Chu, ngài Tam tạng Phạm-ma dịch tại chùa Phật Thọ
Ký.”
26 Bảo vũ kinh 1, T. 16, tr. 284b.
27 Chuyện Phật
thọ ký cho thiên nữ Tịnh Quang rằng đời vị lai sẽ làm vị nữ vương ở Nam Thiên
Trúc là rút ra từ quyển 6 kinh Đại phương
đẳng Bảo vân (còn có tên là kinh Vô
tưởng), T. 12, tr. 1107a-b.
28 Từ quyển
1 đến quyển 6 của kinh Bảo vân, T. 16,
tr. 235c, thì dừng.
29 Thắng thiên vương Bát-nhã ba-la-mật kinh 3,
T. 8, tr. 700c-702c.
30 Thắng thiên vương Bát-nhã ba-la-mật kinh 3,
T. 8, tr. 700c. Vô thượng y kinh, q. thượng,
T. 16, tr. 469b.
31 Thắng thiên vương Bát-nhã ba-la-mật kinh 3,
T. 8, tr. 702c-705b.
32 Kajiyoshi
Kōun (梶芳光運), Nguyên thỉ Bát-nhã kinh chi nghiên cứu,
tr. 175-179.
33 Trinh
Nguyên tân định Thích giáo lục 15, T. 55, tr. 880a.
34 Tối thượng
căn bản đại lạc kim cang bất không tam-muội đại giáo vương kinh 3, T. 8,
tr. 797c.
35 Đại Bát-nhã
ba-la-mật-đa kinh 578, T. 7, tr. 990b.
36 Kajiyoshi Kōun (梶芳光運), Nguyên
thỉ Bát-nhã kinh chi nghiên cứu, tr. 182-183.
37 (Đời Tùy) Chúng
kinh mục lục 2, T. 55, tr. 123b.
38 Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8,
tr. 223a.
39 Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 9, T. 8,
tr. 286b.
40 (Đời Tùy) Chúng kinh mục lục 2, T. 55, tr. 126b.
41 Nhân vương hộ quốc Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh, q. hạ, T. 8, tr. 843c-844a.
42 Liễu nghĩa Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh, T. 8, tr. 845b-c.
43 Khai giác tự tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 1, T. 8, tr. 854c.
44 Khai giác tự tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 1, T. 8, tr. 855c.