KHÔNG VÀ TÂM GIẢI THOÁT

KHÔNG VÀ TÂM GIẢI THOÁT

(Trích dịch từ Chương I của tác phẩm Nghiên cứu về thuyết Tánh Không)

Tác giả: Pháp sư Ấn Thuận

Người dịch: Thích Nhuận Thịnh

Trong sự tu tập định và tuệ, phương tiện có bất nhất, tùy sự quán tưởng bất đồng, tu tập thành tựu, hình thành nhiều loại định pháp; đây không phải đặt nặng đối với định, mà là theo định mà đặt tên. Trong loại tập của giới Phật giáo, học phong khác nhau (vốn là lời Phật dạy, trải qua sự phát triển của chúng đệ tử, trở thành A-tỳ-đạt-ma), nhiều phương diện truyền ra định pháp, hoặc trải qua biện luận, sau đó thành định luận. Nội dung mà các bậc tu chứng truyền lại, không chỉ tên gọi khác nhau, mà dù sử dụng tên gọi tương đồng, thì hàm nghĩa của nó cũng có cạn có sâu. Bởi vì những tên gọi này, tuyệt đại đa số đều là danh xưng cố định của thế tục, chữ “không” cũng không ngoại lệ; tùy theo tập tục mà lập danh, lại thêm trình độ của người truyền bá khác nhau, ý nghĩa cũng sẽ khó mà thống nhất. Đây là điều tất yếu phải chú ý khi lý giải các định pháp.

Định pháp có liên quan mật thiết với không, chủ yếu là 4 loại tâm tam-muội (citta-samādhi), Tương ưng bộ gọi là tâm giải thoát (ceto-vimutti). Kinh Tạp A-hàm nói:

“Trưởng giả Chất-đa-la hỏi Tôn giả Na-dà-đạt-đa rằng: Ba tam muội này có phải là do đức Thế tôn nói không? Hay là do Tôn giả tự ý nói? Tôn giả Na-dà-đạt-đa trả lời: Đây là lời của đức Thế tôn.”*

Theo lời vấn đáp của Tôn giả Na-dà-đạt-đa (Nāgadatta) và Trưởng giả Chất-đa-la (Citra), có thể thấy, các định pháp được truyền bá lúc bấy giờ, có một số là do Phật thuyết, có một số là do các đệ tử trong khi truyền thọ đã tự lập nên định pháp mới. Bốn loại tâm tam-muội (hoặc tâm giải thoát), bấy giờ lại cũng có người đạt đến trình độ hiểu biết đó, cho nên mới có sự vấn đáp này. Kinh Tương ưng bộ, tương đương với đoạn này, người vấn đáp là Ngưu-đạt-đa (Godatta) và Trưởng giả Chất-đa (Citta).1 Lại có Hữu minh đại kinh được biên tập vào Trung bộ, là Xá-lợi-phất vì Đại Câu-hi-la mà nói.2 Căn cứ Tương ưng bộ, thì 4 loại tâm giải thoát là: vô lượng tâm giải thoát (appamāṇa-cetovimutti), vô sở hữu tâm giải thoát (ākiñcaññā-cetovimutti), không tâm giải thoát (suññatā-cetovimutti), vô tướng tâm giải thoát (animitta-cetovimutti). Vấn đề là, bốn loại tâm giải thoát này, rốt cục là văn khác nghĩa khác hay văn khác mà nghĩa đồng? Căn cứ theo kiến giải của Trưởng giả Chất-đa, có thể từ hai phương diện mà nói: 1. Tên gọi khác nhau, ý nghĩa cũng sẽ khác nhau. Khác nhau là, vô lượng tâm giải thoát, là từ, bi, hỉ, xả - 4 vô lượng (catasso-appama-ññāya) định; vô sở hữu tâm giải thoát, là vô sở hữu xứ (ākiñcaññāyatana) định của 4 tầng thiền ở cõi Vô sắc; không tâm giải thoát, là tư duy ngã và ngã sở là không; vô tướng tâm giải thoát, là không tác ý về tất cả tướng, đắc vô tướng tâm tam-muội (animitta-cetosamādhi). 2. Tên gọi tuy khác nhau mà ý nghĩa có thể nói là đồng nhất. Đây là nói, tham, sân, si (đại biểu cho tất cả phiền não) là nhân (pamāṇa-karaṇa ) của lượng, trong vô lượng tâm giải thoát mà vị tỳ-kheo lậu tận đắc được, bất động tâm giải thoát (akuppā-cetovimutti) là tối đệ nhất; bất động tâm giải thoát là không có tham, không có sân, không có si, không có tham, sân, si tức là siêu việt mọi hạn lượng, là sự giải thoát rốt ráo (bất động A-la-hán) của vị tỳ-kheo lậu tận. Ý nghĩa tương đồng, tham, sân, si là chướng ngại (papañca), không còn tham, sân, si tức là siêu việt mọi sở hữu,3 bất động tâm giải thoát là tối thượng trong vô sở hữu tâm giải thoát. Tham, sân, si là nhân của tướng (nimittakaraṇa), không còn tham, sân, si là siêu việt mọi tướng, bất động tâm giải thoát là tối thượng trong vô tướng tâm giải thoát. Trong kinh nói đến vô lượng, vô sở hữu, vô tướng, nhưng lại không có nói đến không tâm giải thoát, nguyên nhân ở đây là vì bất động tâm giải thoát là không còn tham, sân, si, chính là tên khác của không tâm giải thoát. Từ mặt văn khác mà nghĩa đồng mà nói, vô lượng tâm giải thoát, vô sở hữu tâm giải thoát, vô tướng tâm giải thoát, đạt đến chỗ rốt ráo, cùng với không tâm giải thoát – bất động tâm giải thoát, là ngang nhau. Căn cứ trên phương tiện quán tưởng khác nhau, có danh mục gồm 4 tâm giải thoát, mà từ sự không còn tất cả phiền não để nói, thì đây là mục tiêu giống nhau, như muôn dòng đều về biển, đều là vị mặn giống nhau.

Bốn loại tâm tam-muội của kinh Tạp A-hàm, từ mặt tên gọi khác nhau thì ý nghĩa cũng khác nhau mà nói, thì cùng với điều mà Tương ưng bộ nói là nhất trí với nhau. Nhưng từ mặt tên gọi khác nhau nhưng ý nghĩa giống nhau mà nói, thì văn cú của kinh Tạp A-hàm và Tương ưng bộ có thêm bớt chút ít. Như kinh Tạp A-hàm nói:

“Thế nào là pháp chỉ có một nghĩa mà có nhiều vị (vị là cựu dịch của danh)? Đáp rằng: Thưa Tôn giả! Đó là tham có lượng, (nhuế, si là có lượng), nếu là vô tránh thì là đệ nhất vô lượng. Nghĩa là, tham là có tướng, nhuế, si là có tướng, vô tránh là (đệ nhất) vô tướng. Tham là sở hữu, nhuế, si là sở hữu, vô tránh là (đệ nhất) vô sở hữu. Lại nữa, vô tránh ấy, là không có tham, không có nhuế, si; không ấy là thường trụ chẳng biến đổi, không ấy chẳng phải ngã, chẳng phải ngã sở. Đó gọi là pháp có một nghĩa mà có nhiều vị.”*

Bất động tâm giải thoát của Tương ưng bộ, kinh Tạp A-hàm gọi là vô tránh (araṇa), nên là nói lược của vô tránh trụ hoặc vô tránh tam-muội.4 Tránh có 3 loại, phiền não cũng gọi là tránh – phiền não tránh, cho nên vô tránh là không có tất cả phiền não, cùng với bất động tâm giải thoát của không tất cả phiền não tương đương. Tương ưng bộ nói, tối đệ nhất trong ba loại tâm giải thoát như vô lượng, v.v., là không tham, không sân, không si, không nói thêm không tâm giải thoát, đó là vì lấy bất động tâm giải thoát làm không tâm giải thoát vậy. Kinh Tạp A-hàm nói rằng, trong ba loại gồm vô lượng, v.v., thì vô tránh là tối đệ nhất, sau đó lại giải thích vô tránh là: “không có tham, không có nhuế, không có si; không ấy là thường trụ chẳng biến đổi, không ấy chẳng phải ngã, chẳng phải ngã sở.” Giải thích về vô tránh cũng chính là giải thích về không tâm tam-muội. Vô tránh và không là có mối quan hệ, như phần cuối của kinh Câu-lâu-sấu Vô tránh thuộc kinh Trung A-hàm nói: “Này Tộc tánh tử Tu-bồ-đề, bởi do đạo vô tránh, sau đó biết được pháp đúng như pháp. Biết pháp như chân thật, tu-bồ-đề nói kệ, hành chân thật không này, bỏ đây, trụ tịch tịnh.”5 Tóm lại, tối thượng trong 4 loại tâm giải thoát, là bất động tâm giải thoát của không có tham, nhuế, si, hoặc trụ nơi vô tránh, cũng là tâm giải thoát (hoặc tâm tam-muội) mà được rốt ráo, không ngoài sự hoàn thành rốt ráo của không. Vô lượng, vô sở hữu, vô tướng, vô tránh, bất động, từ sự không còn phiền não nên được thanh tịnh mà nói, đều có thể xem là tên gọi khác của không.

Vô tránh – a-lan-nhã, vốn là trú xứ của người tu hành. Do ở nơi trú xứ yên tĩnh, không có phiền lụy, tượng trưng cho trạng thái của thiền định và trí tuệ, mà gọi là trụ nơi vô tránh, vô tránh tam-muội. Đây cùng với không, vốn dùng để diễn tả sự trống vắng của trú xứ, không có sự phiền lụy của người và vật, cũng chính là dùng tượng trưng cho thiền định và trí tuệ, nên có các danh mục như không trụ, không tam muội, v.v., tình cảnh là hoàn toàn giống nhau.



* Đại chánh 2, Tạp 21, tr. 149c.

1 Tương ưng bộ, Chất đa tương ưng (41), Nam truyền 15, tr.450-452. Xem thêm chú thích 4.

2 Trung bộ, Hữu minh đại kinh (43) và Trung A-hàm, Đại Câu-hi-la kinh (211) tương đương, nhưng Trung A-hàm không có phần vấn đáp này.

3 Du-già sư địa luận 87, nói: Phải biết rằng, trong đây là nghĩa cực thô bỉ, vì vậy nên nghĩa là sở hữu. T.30, tr.792a.

* Đại chánh 2, Tạp 21, tr. 150a.

4 A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận 105, nói: Này đại đức Cù-đạt-đa! Phải biết rằng tham dục, sân nhuế, ngu si là tướng, mà có tâm giải thoát bất động là tối thắng vô tướng. T. 27, 542a. Luận này nói Cù-đạt-đa, tức là Ngưu-đạt-đa, và Tương ưng bộ tương đồng; ngược lại, không khớp với Tạp A-hàm.

5 Trung A-hàm, Câu-lâu-sấu vô tránh kinh (169), T.1, tr.730c. Trung bộ, Vô tránh phân biệt kinh (139), nhưng nói: “Thiện nam tử Tu-bồ-đề thực hành vô tránh đạo. Nam truyền 11 hạ, tr.332.

VÔ SỞ HỮU

VÔ SỞ HỮU

(Trích dịch từ Chương I của tác phẩm Nghiên cứu về thuyết Tánh Không)

Tác giả: Pháp sư Ấn Thuận

Người dịch: Thích Nhuận Thịnh

Lại nói đến vô sở hữu (ākiñcañña). Liên quan với vô sở hữu, có 2 kinh:

1. Kinh Thiện tinh của Trung bộ nói: “tâm của chúng sanh, hoặc có khuynh hướng theo năm thứ dục của thế gian; hoặc có khuynh hướng bất động mà lìa khỏi sự trói buộc của dục; hoặc có khuynh hướng đến Vô sở hữu xứ mà sự trói buộc của bất động; hoặc có khuynh hướng đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ mà lìa sự trói buộc của Vô sở hữu xứ; hoặc có khuynh hướng đến Niết-bàn mà lìa khỏi sự trói buộc của Phi tưởng phi phi tưởng xứ.1 Năm loại này, là khuynh hướng của tâm con người thế gian; cũng là thứ lớp thăng tiến của người tu hành, xem Niết-bàn là lý tưởng tối cao. Khi tâm có khuynh hướng về bốn loại trước thì không thể xuất ly, cho nên Vô sở hữu xứ mà tâm hướng đến của kinh Thiện tinh chỉ là cảnh giới của định Vô sở hữu xứ, không có ý nghĩa tương đồng với không (śūnya, suñña).

2. Kinh Bất động lợi ích của Trung bộ, kinh Trung A-hàm gọi là kinh Tịnh bất động đạo. Trong kinh chia làm tịnh bất động đạo, tịnh vô sở hữu xứ đạo, tịnh vô tưởng đạo (Trung bộ gọi là Phi tưởng phi phi tưởng xứ lợi ích hành đạo), Niết-bàn vô dư, Thánh giải thoát.2 Ba loại tịnh đạo trước, tên gọi và thứ tự đều nhất trí với kinh Thiện tinh. Ba loại tịnh đạo trước, tổng cộng chia làm bảy loại, nay căn cứ theo kinh Trung A-hàm (tham khảo Trung bộ), lập đồ biểu như sau:

Hiện thế dục, vị lai thế dục, hiện thế dục tưởng, vị lai thế dục tưởng – là ma cảnh, mồi của ma – tâm tịnh đắc bất động

Tịnh bất động đạo Hiện thế dục… vị lai thế dục tưởng, tứ đại và những sắc do tứ đại tạo thành – là vô thường, khổ, diệt – tâm tịnh đắc bất động

Hiện thế dục… vị lai thế dục tưởng, sắc đời hiện tại, sắc đời vị lai, sắc tưởng đời hiện tại, sắc tưởng đời vị lai – là vô thường, khổ, diệt – tâm tịnh đắc bất động

Hiện thế dục… lai thế sắc tưởng, bất động tưởng – là vô thường, khổ, diệt – tâm tịnh đắc Vô sở hữu xứ3

Tịnh vô sở hữu xứ đạo Đời này là ngã, ngã sở không – tâm tịnh đắc Vô sở hữu xứ

Ngã là chẳng phải tự, chẳng phải tha – tâm định đắc Vô sở hữu xứ

Tịnh vô tưởng đạo Hiện thế dục … bất động tưởng, Vô sở hữu xứ tưởng – là vô thường, khổ, diệt – tâm tịnh đắc vô tưởng

Ba loại tịnh đạo trước mà kinh Tịnh bất động đạo nói là có tầng lớp (tương đồng với tầng lớp trong kinh Thiện tinh), có quán tưởng theo thứ tự, có tầng lớp của thứ tự siêu việt tức diệt, cho nên được gọi là “thứ lớp vượt qua bộc lưu”.4 Nhưng kinh này có điểm bất đồng với kinh Thiện tinh, từ tịnh bất động đạo trở lên, đều có khả năng giải thoát. Trong đó, dục (kama) là 5 loại dục trong Dục giới; bất động (āṇañja), nói theo cách thông thường, là Tứ thiền. Ở trong ấy, có hai điểm cần thiết phải chú ý: bất động – từ Tứ thiền trở lên, là Vô sở hữu xứ, Vô tưởng xứ - Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vì sao từ Tứ thiền trở lên, cùng với khoảng trung gian giữa Vô sở hữu xứ, Vô tưởng xứ, không có Không vô biên xứ và Thức vô biên xứ? Đây là điểm thứ nhất. Phi tưởng phi phi tưởng xứ trong Trung bộ, kinh Trung A-hàm gọi là Vô tưởng, Vô tưởng xứ.5 Vô tướng tâm định (animitta-cetosamādhi), kinh Trung A-hàm thường dịch là vô tưởng định. Vô tưởng (vô tướng tâm) định với Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vô tưởng định, diệt tận định, có mối quan hệ phức tạp. Ba loại định: bất động, vô sở hữu, vô tưởng–vô tướng của kinh này, nói theo thứ tự thì không đúng với những kinh luận được truyền thừa bởi Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin), từ diệt tận định khởi, khởi bất động, vô tướng, vô sở hữu – ba tên gọi riêng biệt này có tương đồng không?6 Đây là điểm thứ hai.

Nói đến tịnh vô sở hữu xứ đạo, trong kinh chia làm 3 loại:

1. Trung bộ nói: Vị Thánh đệ tử khởi tư duy như vầy: Dục trong hiện tại, …bất động tưởng, tất cả thứ này được diệt tận không còn sót, đó là tịch tĩnh, thù diệu, chính là Vô sở hữu xứ. Chuyên tâm an trụ như thế, bấy giờ tâm được thanh (tịnh). Trung bộ nói: Vô sở hữu xứ là tịch tĩnh, thù diệu; kinh Trung A-hàm nói: Tất cả các loại tưởng kia là pháp vô thường, là khổ, là diệt. Đây có thể là cách nói thông thường: pháp tu của quán hạ là khổ, thô, (chướng), quán thượng là tĩnh, diệu (ly), chán hạ mà ưa thượng. Chán hạ nên chuyên chú đến vô sở hữu xứ tưởng, thành tựu vô sở hữu xứ định. Nhưng theo lời kinh đã nói ở trên: tu tập vô sở hữu xứ, hoặc đắc vô sở hữu xứ định, hoặc nương nơi huệ mà được giải thoát, có thể thấy rằng đây không chỉ là loại định thuộc thế tục. Căn cứ theo kinh Trung A-hàm nói: “Tất cả các loại tưởng kia là pháp vô thường, là khổ, là diệt” – hoại pháp, khi ở trong ly dục…, bất động tưởng, trí huệ có được do quán vô thường, khổ, diệt, có thể được giải thoát.

2. Vị Thánh đệ tử tư duy như vầy: ngã và những gì thuộc về ngã là không. Chuyên tâm an trụ như thế thì tâm được thanh tịnh, cũng có đắc hai loại là vô sở hữu xứ định, hoặc nương nơi huệ mà đắc giải thoát. Kinh Trung A-hàm nói: “Vị Thánh đệ tử quán xét như vầy: thế gian này là không: không có thần, sở hữu của thần (cựu dịch của ngã và ngã sở hữu); không có thường, không có hằng, không trường tồn, không bất biến dị.”7 Đây là kinh luận của Thuyết nhất thiết hữu bộ, từ sự không có pháp thường, hằng, bất biến dị - vô thường, để giải thích ý nghĩa ngã và ngã sở hữu là không. Tu pháp quán ngã và ngã sở là không, đắc vô sở hữu xứ định, tuy người xưa có nhiều cách giải thích, kỳ thật, không và vô sở hữu là đồng nhất ý nghĩa với nhau.

3. Kinh Bất động lợi ích của Trung bộ nói: “Vị Thánh đệ tử tư duy như vầy: tôi không hiện hữu nơi nào, chẳng phải cho ai, cũng không ở trong bất cứ vật gì. Sở hữu của tôi không hiện hữu nơi nào, không ở trong người nào, cũng không ở tại vật gì.”*

Kinh Trung A-hàm nói: Vị Thánh đệ tử quán xét như vầy: Ta chẳng phải được tạo ra vì cái khác, cũng chẳng phải được tạo ra vì chính mình”,8 ý nghĩa không được rõ ràng lắm. Luận Đại tỳ-bà-sa dẫn kinh này là: “chẳng phải ta có nơi chốn, có thời gian, có thuộc sự vật, cũng không có nơi chốn, thời gian, sự vật thuộc ngã của ta”,9 cùng với điều Trung bộ nói gần giống nhau. Căn cứ theo điều Tỳ-bà-sa nói: Vô luận xứ nào, thời nào, không có vật làm sở hữu của ta; cũng vô luận xứ nào, thời nào, không có vật nào của ta. Từ trong mối tương quan của ngã và ngã sở, thông đạt vô sở hữu, đây cũng là sự tương đồng của không và vô sở hữu. Nương điều này mà đắc tâm thanh tịnh, cũng có đắc hai loại là vô sở hữu xứ định, hoặc nương nơi huệ mà đắc giải thoát.

Thiền định – tứ thiền, bát định, thông thường nói là pháp của thế gian, tợ hồ là định pháp của thế gian, đệ tử của Phật nương vào loại định pháp này tu quán huệ xuất thế gian. Nhưng ý nghĩa thuộc Tảo kỳ của định huệ trong Phật pháp, vị tất là như thế. Như khi bất động, Vô sở hữu xứ, Vô tưởng xứ - Phi tưởng phi phi tưởng xứ được nói đến, kinh trên đều nói như thế này: Vị Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, đây là pháp được Hiền thánh đệ tử tu. Do vì sự dụng tâm khác nhau của người tu tập, mà có đắc định, hoặc nương nơi huệ mà đắc giải thoát khác nhau. Căn cứ theo pháp tắc nhân quả của Phật pháp, tu đắc loại định nào đó, nếu như không thể nương nơi nó mà phát huệ để được giải thoát, thì người đó sau khi mạng chung, sanh nơi cõi trời của định cảnh thuộc loại định ấy. Nói theo cách thông thường, loại định thuộc thế gian là chán hạ mà thích thượng mà tu đắc, nhưng như 3 loại của tịnh vô sở hữu xứ đạo, đều không phải như thế. Loại thứ hai, là quán ngã và ngã sở là không mà tu đắc. Loại thứ ba, quán không có ngã sở hữu mà tu đắc. Đây đều là giải thoát xuất thế - chánh quán ngã và ngã sở hữu là không. Chỉ là trên sự tu tập có một số vấn đề, mới không thể nương nơi huệ mà đắc giải thoát, trở thành vô sở hữu xứ định, sanh lên cõi trời Vô sở hữu xứ. Ngay cả loại thứ nhất, theo kinh Tịnh bất động đạo, cũng là quán tất cả dục, dục tưởng, sắc, sắc tưởng, bất động tưởng ‘là pháp vô thường, là khổ, là diệt’. Vô thường, khổ, (vô ngã và ngã sở), chính là ba cửa chính yếu của con đường giải thoát xuất thế (ba giải thoát môn cũng theo đây mà lập), cho nên loại thứ nhất cũng có dựa trên huệ mà đắc giải thoát. Như vậy, vô sở hữu xứ đạo, đều nương vào quán huệ thuộc xuất thế mà thành định, nhưng vì trên sự tu trì có vấn đề nào đó, nó mới trở thành thế gian định.

Tu quán huệ thuộc xuất thế mà trở thành định thuộc thế gian, vấn đề rốt cuộc là tại đâu? Trong kinh văn chỗ nói về vô tưởng – sau khi tịnh phi tưởng phi phi tưởng đạo, căn cứ Vô tưởng xứ mà giải thích, ý nghĩa là thông với bất động cho đến vô sở hữu xứ đạo. Kinh Tịnh bất động đạo của kinh Trung A-hàm nói:

“Này A-nan! Nếu tỳ-kheo thực hành như vầy: không có ta, không có cái của ta; ta sẽ (tiến đến) sự không tồn tại, cái của ta sẽ (tiến đến) sự không tồn tại, những gì có trước kia liền xả ly hết thảy. Này A-nan! Nếu tỳ-kheo ưa thích cái xả kia, chấp trước cái xả kia, trụ trong cái xả kia, thì này A-nan, tỳ-kheo hành như thế, ắt sẽ không đắc niết-bàn. … Nếu tỳ-kheo có sự chấp thủ, thì vị ấy ắt không đắc niết-bàn.

Này A-nan! Nếu tỳ-kheo thực hành như vầy: không có ta, không có cái của ta; ta sẽ không tồn tại, cái của ta sẽ không tồn tại, những gì có trước kia liền xả ly hết thảy. Này A-nan! Nếu tỳ-kheo không ưa thích cái xả kia, không chấp trước cái xả kia, không trụ trong cái xả kia, thì này A-nan, tỳ-kheo thực hành như thế, ắt đắc niết-bàn. … Nếu tỳ-kheo không có sự chấp thọ, ắt đắc niết-bàn.”*

Lấy Phi tưởng phi phi tưởng xứ mà nói, thì ta và cái của ta sẽ không tồn tại nữa trong tương lai, xả ly hoàn toàn những gì có trước kia (bản hữu) – sự tồn tại trong hiện tại, điều này đã diễn tả niết-bàn hoàn toàn. Nhưng nếu như đối với sự xả đó mà có ưa thích, chấp trước, trụ vào (Trung bộ, bản Nhật dịch là: hỉ, hoan nghênh, chấp trước), thì sẽ không thể đắc niết-bàn. Ưa thích, chấp trước, trụ vào, nói tóm lại là có chấp thọ, thọ là cựu dịch của thủ (upādāna). Cho nên, dù sự tu của người tu hành chính là chánh quán, chỉ cần tâm có sự ưa thích, chấp trước thì không đắc giải thoát. Như người tu mà không có chánh quán, sẽ liền chiêu cảm quả báo thuộc vô sở hữu xứ. Vô sở hữu xứ định và quả báo cõi trời, là ở tại tình hình này mà thành lập.

Vô sở hữu – vô sở hữu xứ đạo, tu vô thường, khổ, vô ngã và ngã sở không, là tên gọi khác của không quán. Vô sở hữu xứ định, là thiền định hóa của không quán.



1 Trung bộ 105: kinh Thiện Tinh. Nam truyền 11 thượng, tr. 331 – 333.

2 Nam truyền 11 thượng, Trung bộ 106: Bất động lợi ích kinh , tr. 340-346. Trung A-hàm, Tịnh bất động đạo kinh (75), T.1, 542b-543b.

3 Trung A-hàm, Tịnh bất động đạo kinh (75), nguyên tác dịch là “ở đây nhập được bất động”. T.1, 542b-542c. Nay y căn cứ theo văn nghĩa trên dưới và Trung bộ

4 Trung bộ 106: kinh Bất động lợi ích. Nam truyền 11 thượng, tr. 345.

5 Đại chánh 1, Trung A-hàm 75: kinh Tịnh bất động đạo, tr. 543a.

6 Đại chánh 2, Tạp 21, tr. 150c. Đại chánh 1, Trung A-hàm 211: Đại Câu-hi-la kinh, 792a. Đại chánh 27, A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận 153, 781b.

7 Đại chánh 1, Trung A-hàm 75: Tịnh bất động đạo kinh, tr. 542c.

* Trung bộ 106: kinh Bất động lợi ích. Nam truyền 22 thượng, tr. 343. Pāli: nāhaṃ kvacani kassaci kiñcana-tasmiṃ, na mama kvacani kismiñci kiñcanaṃ natthī’ti.

8 Sđd 7.

9 Đại chánh 27, A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận 84, 433b.

VÔ TƯỚNG

VÔ TƯỚNG

(Trích dịch từ Chương I của tác phẩm Nghiên cứu về thuyết Tánh Không)

Tác giả: Pháp sư Ấn Thuận

Người dịch: Thích Nhuận Thịnh

Vô tướng (animitta), trong giải thoát đạo, có nhiều tên gọi, như vô tướng tâm giải thoát (animitta-cetovimutti), vô tướng tâm tam-muội (animitta-cetosamādhi), vô tướng giải thoát (animitta-vimokkha), vô tướng tam-muội (animitta-samādhi), vô tướng đẳng chí (animitta-samāpatti), vô tướng trụ (animitta-vihāra). Ứng dụng của những thuật ngữ này, trong thời Sơ kỳ của Phật giáo, so với không (śūnya, suñña) và vô sở hữu (ākiṃcanya, ākiñcañña), phải nhiều hơn một chút. Đương nhiên, nếu như lấy sự vô ngã và ngã sở là không, thì kinh văn nói về cái không đó, vẫn nhiều hơn so với vô tướng. Vô tướng định, dựa vào sự dụng tâm khác nhau của người tu hành, nên có sâu cạn không nhất định; cùng với Phi tưởng phi phi tưởng xứ (nevasaññā-nāsāññāyatana), diệt tận định (nirodha-samāpatti), vô tưởng định (asañña-samāpatti), đã trở thành định luận, đều có quan hệ, cho nên sự so sánh nội dung là rất phức tạp. A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa nói:

“Từ vô tướng, được giải thích theo nhiều nghĩa: hoặc là đối với không tam-ma-địa mà nói là vô tướng, cũng vậy, hoặc đối với địa vị kiến đạo, hoặc đối với bất động tâm giải thoát, hoặc đối với Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc tức là đối với vô tướng tam-ma-địa mà nói là vô tướng.”*

Luận Bà-sa cho rằng, “vô tướng” – đây là một tên gọi , có 5 ý nghĩa khác nhau, nhưng từ kinh văn mà nói, cũng không hẳn là chỉ có 5 nghĩa được nói đó.

Vô tướng tâm tam-muội là trí quả và trí công đức. Trình bày vấn đề này, trong phẩm Đệ tử ký thuyết của kinh Tạp A-hàm, tổng cộng có 4 kinh (căn cứ theo số thứ tự được sắp xếp trong tạng Đại chánh, là các kinh 556-559, kỳ thật nên chia làm 6 kinh), đều có liên quan với ngài A-nan (Ānanda). Có một vị tỳ-kheo, đã tu đắc vô tướng tâm tam-muội, nhưng không biết là mình đã đắc quả gì, công đức gì. Bấy giờ, vị ấy “Đi theo tôn giả A-nan, nếu như có người khác hỏi ý nghĩa này, nhờ đó mà được nghe. Tỳ-kheo ấy liền theo tôn giả A-nan, trải qua suốt 6 năm, không có người nào hỏi ý nghĩa này”, cuối cùng, vị ấy tự mình nêu ra câu hỏi thỉnh vấn.1 Trong suốt 6 năm không có người nào hỏi, chứng tỏ vô tướng tâm tam-muội, ban đầu, có rất ít người bàn luận đến. Trong kinh Tạp A-hàm nói đến: vô tướng tâm tam-muội, là Phật vì chúng tỳ-kheo-ni mà thuyết; các tỳ-kheo-ni lại hỏi ngài A-nan, ngài A-nan vì các tỳ-kheo-ni mà giải thích. Điều này chứng tỏ, chủ yếu là: “Đại sư và đệ tử, cùng một câu, cùng ý vị, cùng nghĩa lý”;2 chỉ là vì đức Như lai đã từng nói đến, để khẳng định địa vị của vô tướng tâm tam-muội trong Phật pháp. Tập 9, kinh 37 của Tăng chi bộ trong Tạng Pāli, cũng nói đến trí quả và trí công đức, thật tế, đó là sự kết hợp hai kinh 557 và 559 của kinh Tạp A-hàm.3 Tóm lại, vô tướng tâm tam-muội là kinh do sự tu đắc của đệ tử Phật mà truyền ra, mỗi ngày ánh sáng càng thêm rực rỡ.

Vô tướng tâm tam-muội, theo lời của trưởng giả Chất-đa (Citra), là tam muội của sự “không niệm (tác ý) đối với tất cả tướng” mà tu thành.4 Tác ý (manasikāra), hoặc dịch là tư duy, niệm, ức niệm. Vô tướng tâm tam-muội của sự không tác ý tất cả tướng, có sâu cạn. Kết quả rốt ráo của vô tướng, như thiên Kỳ-dạ của kinh Tạp A-hàm nói:

“Tu tập nơi vô tướng, diệt kiết sử kiêu mạn, đạt được hiện quán mạn, rốt ráo tận khổ biên.”*

Bài kệ này là của ngài A-nan nói cho Bà-kỳ-xá (Vaṅgīsa), Tương ưng bộ cũng giống như vậy.5 Luận Du-già giải thích rằng: “Do vì đoạn này, gọi là vô học”.6 Vô tướng tâm tam-muội của trí quả và trí công đức, luận Tỳ-bà-sa cho rằng nó là tên khác của không tam-ma-địa.7 Luận Du-già sư địa giải thích đối với vô tướng tâm tam-ma-địa, như quyển 12 nói:

“Sao gọi là vô tướng tâm tam-ma-địa? Tức là đối với sự diệt của các thủ uẩn kia, tư duy tĩnh lặng, tâm trụ vào một duyên. Như kinh nói: vô tướng tâm tam-ma-địa không xuống thấp không lên cao. … Lại do hai nhân duyên mà nhập vô tướng định: 1. Vì không tư duy tất cả tướng; 2. Vì chánh tư duy về vô tướng giới. Do không tư duy về tất cả tướng, đối với các tướng kia không chán bỏ, không phá hủy, chỉ không tác ý tư duy thêm, nên gọi là không xuống thấp. Do chánh tư duy về vô tướng giới, đối với vô tướng kia không cố chấp, nên gọi là không lên cao.”

Vô tướng tâm tam-muội không thấp không cao đó, chính là điều mà kinh nói, không vọt lên không chìm xuống, tam-muội của trí quả và trí công đức. Điều mà luận Du-già nói và điều luận Tỳ-bà-sa nói, là tên gọi khác của không tam-ma-địa, sự nhận thức bất đồng.

Căn cứ theo lời mà kinh văn nói, vô tướng tâm tam-muội, hoặc tại vô lượng tâm giải thoát trở xuống, đó là ‘thoát khỏi tất cả tướng’, tâm ‘không bị trói buộc theo tướng được nhận thức’.8 Hoặc nương theo Tứ thiền mà nói là vô tướng tâm tam-muội, nếu như không cầu tiến thêm nữa, cùng với mọi người qua lại nơi hỗn tạp, cười nói bỡn cợt, thì cái định đó sẽ bị thoái lui và mất, có thể sẽ hoàn tục.9 Cho nên, tam-muội thông với hữu lậu; vô tướng tâm tam-muội của trí quả và trí công đức, cũng chính là vô tướng tâm giải thoát, chỉ là (Sở quả đến Tứ quả) của vô lậu.

Định, có hai loại là định có tưởng (hữu tưởng) và định không có tưởng (vô tưởng), như kinh Tạp A-hàm nói:

“Tôn giả A-nan bảo tỳ-kheo Ca-ma rằng: Nếu một vị tỳ-kheo ly dục, ly các pháp ác bất thiện, có giác, có quán, có ly sanh hỉ lạc, có đủ và an trụ Sơ thiền; như vậy… có đủ và an trụ Vô sở hữu nhập xứ: như vậy tỳ-kheo có tưởng, có pháp nhưng không giác tri. … Tỳ-kheo không ức niệm tất cả tưởng, tự thân tác chứng, có đủ và an trụ vô tưởng tâm tam-muội, đó gọi là tỳ-kheo vô tưởng, mà không giác tri đối với pháp mình có.”*

Từ Vô sở hữu xứ (ākiñcaññāyatana) trở xuống là Sơ thiền đến Vô sở hữu xứ định, là có tưởng mà không giác tri; vô tưởng tâm định là không có tưởng mà không có giác tri. Đoạn trong Tăng chi bộ và đoạn này tương đương, cũng nói là từ Vô sở hữu xứ trở xuống là có tưởng mà không giác tri; tiếp theo nói đến tam-muội không vọt lên không chìm xuống (không xuống thấp, không lên cao).10 Ở đây có thể thấy rằng, từ Vô sở hữu xứ trở lên chính là vô tướng tâm tam-muội của vô tưởng. Kinh Tĩnh lự của Tăng chi bộ, trước hết nói tổng quan rằng: “Nương nơi Sơ tĩnh lự mà diệt tận các lậu, nương nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ mà diệt tận các lậu”, rồi sau đó phân tích cụ thể. Nhưng trong phần phân tích cụ thể, nói từ Sơ tĩnh lự đến Vô sở hữu xứ định, ‘như vậy đẳng chí có tưởng’. Ở đây là nói, từ Vô sở hữu xứ định trở xuống là định có tưởng, cùng với lời trong kinh Tạp A-hàm tương đồng. Phần kinh văn ở sau không có nói là nương nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ mà diệt tận các lậu, chỉ nói Phi tưởng phi phi tưởng xứ và Tưởng thọ diệt đẳng chí (saññavedayitanirodhasamāpatti) là thiện xảo;11 Phi tưởng phi phi tưởng xứ và Tưởng thọ diệt định không phải là định không có tưởng mà cùng với vô tướng tâm tam-muội tương đương sao?

Vô tướng tâm tam-muội còn được giải thích là Phi tưởng phi phi tưởng xứ, như A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa nói:

“Đối với Phi tưởng phi phi tưởng xứ cho là tên gọi vô tướng, như nói: Ta khởi nhiều gia hành, dùng nhiều nỗ lực nên đắc vô tướng tâm định, không nên ưa thích và đắm chìm ở trong ấy. Người nói điều này không khởi hữu đảnh vị định, chỉ khởi tịnh định. Hỏi: Vì sao Phi tưởng phi phi tưởng xứ được gọi là vô tướng vậy? Đáp: Bởi vì nó không có nhận thức rõ ràng về tướng của tưởng, cũng không nhận thức rõ ràng về tướng của vô tưởng, chỉ có sự mê mờ nên không nhận thức rõ về cái tưởng nhỏ nhiệm đang hiện hành, như nghi ngờ mà thay đổi, nên gọi là vô tướng.”*

Kinh nói về vô tướng định, mà được giải thích là Phi tưởng phi phi tưởng xứ định, là kinh Tịnh bất động đạo của Trung A-hàm. Kinh trên nói: dục tưởng, sắc tưởng, bất động tưởng, vô sở hữu xứ tưởng, “tất cả tưởng đó là pháp vô thường, là khổ, là diệt. Bấy giờ vị ấy đắc vô tưởng. Vị ấy thực hành như vậy, học như vậy, tu tập như vậy mà phát triển, liền ở ngay đó mà tâm được thanh tịnh. … Hoặc ở ngay đó mà nhập vào vô tưởng, hoặc dùng huệ để giải thoát”. Người đã đắc vô tưởng định này mà nếu có chấp thọ (thủ) – ham thích, đắm trước, trụ, liền thọ quả báo của (phi) hữu tưởng và Vô tưởng xứ.12 Vì đã đắc vô tướng tâm định mà có sự tham đắm, cho nên là vô tưởng mà lại có sự không nhận thức rõ ràng các tưởng vi tế đang hiện hành, nhân đó nên gọi là Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Nếu tâm không tham đắm, thì đó là vô tướng tâm giải thoát vậy.

Tưởng thọ diệt định, hoặc gọi là diệt (tận) định, hoặc gọi là tăng thượng tưởng diệt trí định (abhisaññanirodha-sampajāna-samāpatti). Nó cùng với vô tướng tâm tam-muội tương đương, như trong Tương ưng Mục-kiền-liên của Tương ưng bộ, từ Sơ thiền nói đến Tứ thiền, từ Không vô biên xứ đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ; ở định thứ tám trở lên, gọi là vô tướng tâm định.13 Nhưng Tương ưng Xá-lợi-phất, cũng từ Sơ thiền nói đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ định, rồi sau đó nói là Tưởng thọ diệt định.14 Có thể thấy địa vị của vô tướng tâm tam-muội với Tưởng thọ diệt định là tương đương. Lại nữa, trong khoảng năm mà Phật nhập Niết-bàn, Phật bị bệnh tại thành Tỳ-xá-ly (Vesālī), Ngài nhập vào Vô tướng tam-muội để khống chế cơn đau trong ruột, như kinh Du hành trong Trường A-hàm nói:

“Ta nay già rồi, tuổi đã tám mươi. … tự lực tinh tấn, nhẫn chịu được cơn đau của (bệnh) này, không nghĩ đến tất cả tưởng, khi nhập vào Vô tưởng định, thân Ta an ổn, không có đau đớn.”*

Trong Tạp sự cũng nói như vậy: “Dùng Vô tướng tam-muội, quán xét nỗi đau về thân của Ngài, khiến nó được chấm dứt”. Kinh Đại Bát-Niết-bàn trong Trường bộ lại nói: “Này A-nan! Như lai không nhớ nghĩ hết thảy tướng, khi nhập vào Nhất thiết thọ diệt tướng tâm tam-muội và an trụ trong đó, thân thể của Như lai được khỏe lại.”15 Trường bộ nói không nhớ nghĩa hết thảy tướng, lại nói “nhập vào Nhất thiết thọ diệt tướng tâm tam-muội”, hiển nhiên là Vô tướng tâm tam-muội còn có ý nghĩa của tưởng thọ diệt. Tưởng thọ diệt định là từ trong Vô tướng tâm định mà phân hóa ra, đương nhiên đã được giới Phật giáo công nhận từ lâu, nhưng mà từ Phi tưởng phi phi tưởng xứ trở lên, lập nên một loại nữa là Diệt tận định, như các kinh Tản nhị (kinh Bẫy mồi) (25), kinh Thánh cầu (26), Tâm tài dụ tiểu kinh (tiểu kinh Ví dụ lõi cây) (30), Ngưu giác dụ tiểu kinh (tiểu kinh Ví dụ sừng bò) (31), Thuần kinh (kinh Con chim cáy) (66), Thiện sỹ kinh (kinh Chân nhân) (113) trong Trung bộ, nhưng ở trong Trung A-hàm chỉ có kinh Lạp sư kinh (kinh Người thợ săn) (178) tương đương với kinh Tản nhị, tại Phi tưởng phi phi tưởng xứ trở lên lập thêm Tưởng tri diệt, còn lại đều không có, có thể thấy trong kinh giáo được truyền tụng giữa các bộ phái, Tưởng thọ diệt định vẫn còn trong trạng thái bất xác định. Diệt tận định và vô tưởng – Vô tưởng tâm định, Trung A-hàm chia rõ làm hai loại định khác nhau là nhập định và xuất định,16 nhưng Trung bộ lại không có chia như vậy. Tưởng thọ diệt định ở trong giới Phật giáo có nhiều tranh luận. Như Ô-đà-di (Udāyin) phản đối lời của Xá-lợi-phất (Śāriputra): “Nếu như đối với hiện pháp mà không đắc trí cứu cánh, thì sau khi thân hoại mạng chung, vượt qua trời Đoàn thực, sanh nơi cõi trời Ý sanh khác, ở đó xuất nhập Tưởng tri diệt định, ắt có sự này xảy ra.”17 Trong các bộ phái, hoặc cho rằng Tưởng thọ diệt định là hữu vi; hoặc cho là vô vi, hoặc cho là chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi. Hay họ cho là người đắc Tưởng thọ diệt là hữu tình không có tưởng; hoặc cho là chẳng phải hữu tình không có tưởng, hoặc cho Tưởng thọ diệt của thế gian là hữu tình không có tưởng, tưởng thọ diệt của xuất thế gian là hàng Thánh giả. Kinh Đại thừa cho rằng: Nếu Bồ-tát không có đủ hạnh nguyện từ bi mà nhập Diệt định thì sẽ chứng quả nhỏ; nếu như có đủ hạnh nguyện từ bi thì liền nhập vào định thâm sâu của pháp tánh như như. Các quan điểm khác nhau rối ren như thế này, đủ để nói lên rằng, Diệt tận định có liên quan đến Vô tướng tâm định, điều này trong giới Phật giáo là vô cùng mập mờ.

Y cứ vào Vô tướng tâm tam-muội, diễn giải ra thành Phi tưởng phi phi tưởng xứ định (và nơi chốn thọ nhận quả báo), ngoài Diệt tận định ra, có cho hữu tình không có tưởng (asaññasatta), Vô tưởng định. Vô tướng tâm tam-muội là không tác ý mọi tướng, cũng chính là không khởi hết thảy tưởng. Kinh Đại duyên của Trường bộ lập nên bảy loại thức trụ và hai xứ, hai xứ là nơi của hữu tình không có tưởng và Phi tưởng phi phi tưởng xứ.18 Vô tưởng định và Diệt tận định tương tợ nhau, nên từ sự khác nhau khi khởi định mà phân biệt thêm.19 Bảy thức trụ và hai xứ, tổng hợp lại gọi là chín nơi cư trú của hữu tình.20 Căn cứ theo kinh Ba-lê của Trường bộ nói: Theo thuyết về sự khởi nguyên của thế giới trong truyền thuyết, thì thuyết ‘vô nhân luận’ mà trong ấy nói, là từ hữu tình vô tưởng sau khi chết rồi sanh xuống đây, cho nên mới có thuyết vô nhân.21 Vô tưởng định và hữu tình không có tưởng, có thể là ngoại đạo có kinh nghiệm tu tập và truyền thuyết tương tợ như vô tưởng, Phật pháp có lẽ vì cần có sự giải thích, mới từ trong Vô tưởng định và Diệt tận định chia ra, chỗ cư trú là trời Quảng quả thuộc Tứ thiền. Đây là sự thành lập có lẽ trễ một chút.

Kinh Tạp A-hàm (Tu-đa-la) nói:

“Này các tỳ-kheo! Tham tưởng, nhuế tưởng, hại tưởng, tham giác, nhuế giác, hại giác, và vô lượng loại bất thiện, làm sao diệt trừ được rốt ráo? Hãy buộc tâm nơi bốn niệm xứ, trụ nơi Vô tướng tam-muội, tu tập, tu tập càng nhiều, các pháp ác bất thiện theo đây mà bị diệt trừ, hết vĩnh viễn không còn thừa sót”. “Vị Thánh đệ tử đa văn tư duy như vầy: Có thể nào ở thế gian có một pháp gì đáng chấp thủ mà không có tội lỗi không? Sau khi tư duy như vậy, vị ấy đều không thấy một pháp nào đáng chấp thủ mà không có tội lỗi. … Biết như thế rồi, đối với các thế gian thời không có chấp thủ; người không có chấp thủ thì tự giác ngộ Niết-bàn.”*

Điều mà Tương ưng uẩn của Tương ưng bộ nói, cùng với đoạn trên đại để tương đồng.22 Theo kinh này nói: Nương vào ba loại tưởng mà có ba loại giác (giác – cách dịch mới là tầm tư) bất thiện, dẫn đến phát sanh nhiều loại pháp bất thiện khác, người tu tập nhiều về Vô tướng tam-muội, có thể vĩnh viễn diệt trừ không còn sót lại các loại bất thiện đó. Vô tướng tam-muội nương theo Tứ niệm xứ mà tu. Tứ niệm xứ là: quán thân này là không thanh tịnh, quán các loại thọ đều là khổ, quán tâm mình là vô thường, quán các pháp là vô ngã, đó là đạo nhất thừa của sự giải thoát. Y cứ vào đây mà tu Vô tướng tam-muội, không chấp thủ mọi tướng, không chấp thủ pháp là có, cũng không chấp thủ pháp là vô, thật sự có thể tu đến không còn chấp thủ bất cứ pháp gì, thì liền tự chứng Niết-bàn vậy. Trong kinh thường nói: Nương theo Tứ niệm xứ, tu tập bảy giác chi mà được giải thoát. Tu tập mỗi một giác chi đều phải “nương vào sự viễn ly, nương vào sự ly dục, nương vào sự tịch diệt, mà hướng đến sự xả (xả tức là không chấp trước mọi thứ)”.* Vô tướng tam-muội là không chấp thủ hết thảy tướng, có thể nói đó chính là tu tập “nương vào sự tịch diệt, mà hướng đến sự xả” vậy.

Tam-muội của sự không chấp thủ mọi pháp, cùng với con ngựa chưa được huấn luyện – loại thiền ương ngạnh (cương lương thiền - khaluṅka-jhāna) mà Phật dạy cho Săn-đà-ca-chiên-diên (Sandha-kātyāyana-gotra), nhất định phải có mối quan hệ ở mức độ nào đó, như trong Như lai ký thuyết của Tạp A-hàm nói:

“Như vậy, này Săn-đà! Vị tỳ-kheo tu thiền như vậy (không nghĩ đến năm triền cái, an trú nơi sự biết như thật về xuất ly), không y cứ nơi đất mà tu thiền, không y cứ nơi nước, lửa, gió, không, thức, vô sở hữu, phi tưởng phi phi tưởng mà tu thiền; không y cứ vào đời này, đời khác, không phải mặt trời (không phải) mặt trăng, không phải thấy, nghe, cảm nhận, hiểu biết, không đắc, không cầu, không đi theo giác (tầm), không đi theo quán (tư) mà tu thiền. Này Săn-đà! Vị tỳ-kheo tu thiền như vậy, thì các thiên chủ như Y-thấp-ba-la, Bà-xà-bà-đề, cung kính chắp tay, cúi đầu làm lễ mà nói kệ rằng: Nam-mô Đại sỹ phu, nam-mô bậc Thượng sỹ! Bởi tôi chẳng thể biết, nương đâu mà thiền định?”. “Phật bảo Bạt-ca-lợi: Vị tỳ-kheo đối với địa tưởng mà điều phục địa tưởng, đối với nước, gió,… nếu giác, nếu quán, thì thảy đều hàng phục được các tưởng kia. Này Bạt-ca-lợi! Vị tỳ-kheo tu thiền như vậy, không y cứ nơi đất, nước, lửa, gió, cho đến không y cứ nơi giác, quán mà tu thiền.”*

Đối với đất, v.v. mà có thể điều phục tưởng về đất, v.v., không y cứ nơi đất, v.v. mà tu, đó là vô tướng thiền. Biệt dịch Tạp A-hàm mở mộng nghĩa thành: “(Mọi pháp) thảy đều hư ngụy, không có pháp nào là thật, chỉ vì giả đặt, do nhân duyên hòa hợp nên có nhiều tên, quán nó là trống rỗng, không thấy có (bất cứ thứ gì là) pháp cho đến chẳng phải pháp.”23 ‘Không thấy có pháp cho đến chẳng phải pháp’, cùng với lời Phật dạy trong kinh Giáo giới Ca-chiên-diên là ‘không khởi quan niệm về có, quan niệm về không’ phù hợp nhau; cũng cùng với thuyết ‘ly quan niệm về có, quan niệm về không, không thấy bất một pháp nào có thể chấp trước mà không có tội lỗi’ phù hợp nhau.24 Không nương tựa vào đâu mà tu thiền, thấy rằng ở trong chương 11 pháp của Tăng chi bộ25 đã diễn ra thành 10 kinh tương tợ nhau. Kinh văn được truyền tụng bởi các bộ phái đã có không ít sự thêm bớt, đại để là nhằm phù hợp với giáo nghĩa của tong phái mình.26 Nhưng từ mặt tương đồng giữa Tạp A-hàm và Tăng chi bộ mà nói, thì ở đây là không nương tựa vào mọi tưởng mà tu tập vô tướng thiền.

A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận nói:

“Này Đại Mục-kiền-liên! Phạm thiên Để-sa không nói đến hạng vô tướng trụ thứ sáu phải không?... Nếu có Bí-sô không tư duy thêm nữa đối với hết thảy tướng, thì chứng đầy đủ và an trụ nơi Vô tướng tâm tam-ma-địa, đó gọi là vô hạng tướng trụ thứ sáu.”*

Trong luận dẫn chứng nhiều kinh văn (đều là kinh Tăng nhất A-hàm của Hữu bộ): Phạm thiên Để-sa (Tissa) nói với Đại Mục-kiền-liên rằng: Một bộ phận trong chúng Phạm thiên, có thể biết ai là câu giải thoát,… ai là tín thắng giải. Mục-kiền-liên đã trình bày lại với đức Như lai điều này, đức Như lai bảo rằng: “Tất cả Thánh giả, tổng cộng có bảy hạng người”. Phạm thiên Để-sa trình bày từ câu giải thoát đến tín thắng giải, chỉ mới nói có 5 hạng, không có nói hạng thứ sáu là hạng vô tướng trụ. Vị đạt được vô tướng trụ (an trụ nơi vô tướng) là vị đã chứng đắc đầy đủ và an trụ nơi Vô tướng tâm tam-ma-địa, đây là điều mà Phạm thiên không thể biết được; điều này với sự không biết của các thiên chủ về loại thiền ương ngạnh là y cứ nơi nào mà tu thiền giống nhau. Hạng thứ sáu là vô tướng trụ mà Phật nói, luận Đại tỳ-bà-sa giải thích rằng: “Tất cả Thánh giả, tổng cộng có bảy hạng người”, Đề-sa đã nói đến năm hạng, cho nên hạng vô tướng trụ chính là người hành theo pháp và hành theo tín. Hành theo pháp (tùy pháp hành) và hành theo tín (tùy tín hành) là người đạt đến địa vị kiến đạo. Địa vị kiến đạo có 15 tâm, là tốc tật đạo, là vi tế đạo, không thể thiết lập, trình bày, cho nên hành theo pháp và hành theo tín, tổng hợp gọi là hạng vô tướng trụ.27 Kinh văn mà Tỳ-ba-sa dẫn chứng, thấy trong Tăng chi bộ, nhưng có khác nhau chút ít. Phạm thiên Để-sa đã nói 6 hạng người – câu giải thoát… tùy hành pháp, không nói đến hạng thứ bảy là Vô tướng trụ bổ-đặc-già-la (sattama-animitta-vihārin-puggala),28 hạng thứ bảy cuối cùng là người vô tướng trụ, là chuyên chỉ cho người đã hành theo tín. Người hành theo tín làm gì mà đặc biệt được gọi là người vô tướng trụ?

Liên quan đến hạng người vô tướng trụ thứ sáu mà kinh nói, luận Đại tỳ-bà-sa nói đến: “Có người không hiểu rõ ý nghĩa đó được kinh ấy nói, liền chấp do duyên Diệt đế mà nhập vào chánh tánh ly sanh, vì kiến đạo gọi là vô tướng trụ, và vì chỉ có ở trong Diệt đế mới không thấy có các tướng.”29 Đây là kiến giải của Pháp tạng bộ (Dhammaguttika), như luận A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa nói:

“Có quan điểm rằng: Chỉ có vô tướng tam-ma-địa mới có thể nhập vào chánh tánh ly sanh, như Đạt-ma-cấp-đa bộ đã nói. Họ cho là vô tướng tam-ma-địa ở trong Niết-bàn, khởi tác ý tịch tĩnh, rồi nhập vào chánh tánh ly sanh.”*

Nhập vào chánh tánh ly sanh (samyaktva-niyāma) chính là kiến đạo. Căn cứ theo văn rõ ràng ở trong kinh, người hành theo tín, v.v. sở dĩ được gọi là hạnh vô tướng trụ, đó là vì ‘không tư duy thêm nữa đối với hết thảy tướng, thì có đầy đủ và an trụ nơi Vô tướng tâm tam-ma-địa’, chứ không phải là như điều mà luận Đại tỳ-bà-sa đã nói. Thấy được Tứ đế là đắc đạo hay thấy được Diệt đế là đắc đạo, là hai hệ thống (hai luồng tư tưởng) lớn của bộ phái Phật giáo. Căn cứ theo hạng thứ sáu được gọi là vô tướng trụ mà nói, trong quá trình tu tập Thánh đạo, biết Khổ, đoạn Tập mà chứng Diệt đế, gọi là Thánh giả, có lẽ thuyết thấy Diệt đế thì đắc đạo càng phù hợp hơn với nghĩa của kinh vậy!

Vô tướng tâm tam-muội có sâu cạn: cạn thì còn có thể bị thối đọa; sâu thì có thể thấy Diệt đế và đắc đạo, thành bậc Thánh giả; tối cao nhất, đương nhiên là không còn tất cả phiền não, là bất động tâm giải thoát của bậc A-la-hán vậy.



* A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa 104, T.27, tr. 541b.

1 Tạp A-hàm 20, T.2, tr.146b.

2 Tạp A-hàm 20, T.2, tr.146a.

3 Tăng chi bộ, chương 9 pháp, Nam truyền 22 thượng, tr.125-126.

4 Tạp A-hàm 21, T.2, tr.149c. Tương ưng bộ, Chất-đa tương ưng (41), Nam truyền 15, tr.451.

* Tạp A-hàm 45, T. 2, tr. 331b.

5 Tương ưng bộ, Bà-kì-sa trưởng lão tương ưng (8), Nam truyền 12, tr.325.

6 Du-già sư địa luận 17, T.30, tr. 372b-c.

7 A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận 104, T.27, tr.541b-c.

8 Tăng chi bộ, chương 6 pháp, Nam truyền 20, tr.20-21. A-tỳ-đạt-ma Tập dị môn túc luận 15, T.26, tr.431a.

9 Tăng chi bộ, chương 6 pháp, Nam truyền 20, tr.156-157. Trung A-hàm, Chi-ly-di-lê kinh (82), T.1, tr.559a.

* Tạp A-hàm 21, T.2, tr.146c.

10 Tăng chi bộ, chương 9 pháp, Nam truyền 22 thượng, tr.127.

11 Tăng chi bộ, chương 9 pháp, Nam truyền 22 thượng, tr.112-124.

* A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận 105, T.27, tr.542a.

12 Trung A-hàm, Tịnh bất động đạo kinh (75), T.1, tr.543a. Trung bộ, Bất động lợi ích kinh (106), ‘vô tưởng’ chép là ‘Phi tưởng phi phi tưởng xứ’.

13 Tương ưng bộ, Mục-kiền-liên tương ưng (40), Nam truyền 15, tr.405-414.

14 Tương ưng bộ, Xá-lợi-phất tương ưng (28), Nam truyền 14, tr.380-385.

* Trường A-hàm, kinh Du hành, T.1, tr.15b.

15 Căn bản Thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự 36, T.24, tr.387b. Trường bộ, Đại Bát-niết-bàn kinh (16), Nam truyền 7, tr.68.

16 Trung A-hàm, Pháp lạc tỳ-kheo-ni kinh (210), T.1, tr.789a. Xem thêm: Đại Câu-hi-la kinh, T.1, tr.791c-792a.

17 Trung A-hàm, Thành tựu giới kinh (22), T.1, tr.449c. Tăng chi bộ, chương 5 pháp, Nam truyền 19, tr.268-269.

18 Trường bộ, Đại duyên kinh (15), Nam truyền 7, tr.22-24. Trường A-hàm, Đại duyên phương tiện kinh (13), T.1, tr.62b. Trung A-hàm, Đại nhân kinh (97), T.1, tr. 582a.

19 Trung A-hàm, Pháp lạc tỳ-kheo-ni kinh (210), T.1, tr.789a. Xem thêm: Đại Câu-hi-la kinh (211), T.1, tr.792a.

20 Trường bộ, Đẳng tụng kinh (33), Nam truyền 8, tr.343-344. Trường A-hàm, Chúng tập kinh (9), T.1, tr.52b-c. Tăng chi bộ, chương 9 pháp, Nam truyền 22 thượng, tr.77-78. Tăng nhất A-hàm, Cửu chúng sanh cư phẩm, T.2, tr.764c-765a.

21 Trường bộ, Ba-lê kinh (24), Nam truyền 8, tr.43. Trường A-hàm, A-nậu-di kinh (15), T.1, 69c.

* Tạp A-hàm 10, T.2, tr.72a-b.

22 Tương ưng bộ, Tương ưng uẩn (22), Nam truyền 14, tr.150.

* Tạp A-hàm 29, T.2, tr.208c4-5, và nhiều nơi khác.

* Tạp A-hàm 33, T.2, tr. 236a-b.

23 Biệt dịch Tạp A-hàm kinh 8, T.2, tr.431a.

24 Tạp A-hàm 12, T.2, 85c. Xem thêm quyển 10, T.2, tr.72b.

25 Tăng chi bộ, chương 11 pháp, Nam truyền 22 hạ, tr.291.

26 Sơ kỳ đại thừa Phật giáo chi khởi nguyên dữ khai triển, tr.278-284.

* A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận 40, T.27, tr.209b.

27 A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận 40, T.27, tr.209c. Xem thêm quyển 104, T.27, tr.541c.

28 Tăng chi bộ, chương 7 pháp, Nam truyền 20, tr.326-328.

29 A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận 40, T.27, tr.209b.

* A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận 185, T.27, tr.927c.