Trung luận và kinh A-hàm

(Trích dịch từ Chương IV của tác phẩm Nghiên cứu về thuyết Tánh Không)

Tác giả: Pháp sư Ấn Thuận

Người dịch: Thích Nhuận Thịnh

Luận thư, có “luận giải thích kinh - thích kinh luận” và “luận tông chỉ của kinh - tông kinh luận”. Luận giải thích kinh, là căn cứ theo thứ tự của kinh văn mà giải thích. Có lý do vì: đức Như lai tùy theo căn cơ mà thuyết pháp, kinh được tập hợp lại không nhất định là thuyết trong một hội, nên không ngại đã nói rồi lại nói lặp, cũng không ngại hoặc cạn hoặc sâu. Có lý do vì: đức Như lai là bậc có nhất thiết trí, thuyết pháp không thể bị lặp lại, nên đặt trọng thứ tự trước sau. Luận Đại trí độ và luận Thập trụ tỳ-bà-sa là luận giải thích kinh mà thuộc vào một loại hình ở trước, có phong cách của kinh sư (đọc lại) ở phương nam; cùng với các luận giải thích kinh của các luận sư (đọc lại), như các luận giải thích kinh của Vô trước (Asaṇga), thể tài khác nhau. Luận tông chỉ của kinh, là căn cứ theo một kinh hoặc nhiều kinh là nghiên cứu suy luận về nghĩa lý của pháp, có truyền thống A-tỳ-đạt-ma (Abhidharma), đều là suy tư sâu sắc, quán xét miên mật, xét đoán pháp nghĩ, tợ hồ không như thế thì không thể. Trung luận là luận giải thích tông chỉ của kinh, nhưng đặt trọng nơi phân tích nghĩa lý sâu xa. Kỳ thật, luận thư còn có một loại “luận về sự thực hành pháp quán”, lấy sự thực hành pháp quán (chỉ quán) làm chủ đích. 27 phẩm của Trung luận, mỗi phẩm đều gọi là “quán”, nên người xưa gọi Trung luậnTrung quán. Như trong Vật bất thiên luận, Tăng Triệu nói: “Trung quán nói: nhìn phương hướng mà biết người kia đi, người đi không đến phương đó.”1 Trung luận là luận giải thích tông chỉ của kinh, dùng sự thực hành pháp quán làm tông chỉ, mà không phải là chú trọng sự tư biện. Sở học của Long thọ (Nāgārjuna), xuyên suốt bắc - nam, Đại – Tiểu, nhưng biểu hiện ra lập trường độc đáo. Hiện tại nghiên cứu nghĩa Không (śūnya, śūnyatā) của Long thọ, dùng Trung quán làm chủ, đây là điều chung của các học giả Trung quán hậu kỳ; dùng luận Đại trí độ, v.v. làm hỗ trợ, trình bày vấn đề còn không rõ ràng trong Trung luận.

Trung luận, nêu lên tôn chỉ, thuyết minh ý nghĩa (khai tông minh nghĩa), là “không sanh cũng không diệt, không thường cũng không đoạn, không nhất cũng không dị, không đến cũng không đi: người thuyết nhân duyên này, mà nó (nhân duyên) là thiện và diệt trừ mọi hí luận”.2

Luận đề chủ yếu của Trung luận, là nhân duyên, (tân dịch là duyên khởi - pratītya-samutpāda), duyên khởi gồm tám sự phủ định; duyên khởi gồm tám sự phủ định, chính là Trung đạo (madhyamā-pratipad). Hàm nghĩa của duyên khởi gồm tám sự phủ định, có thể nói cùng với kinh Bát-nhã tương đồng; mà dùng duyên khởi làm luận đề, lấy tám sự phủ định để xiển minh, lại không phải là kinh Bát-nhã. Tôi cho là: “Trung luận là bản giải thích của kinh A-hàm; là giải thích tư tưởng căn bản của kinh A-hàm, phân tích ý căn bản có trong kinh A-hàm.” “Chính xác, Trung luận là dùng lập trường của học giả Đại thừa, xác nhận duyên khởi – không – trung đạo là nghĩa sâu xa căn bản của Phật pháp. … chọn lấy và phát huy nghĩa duyên khởi sâu kín của A-hàm, đem chánh kiến về Phật pháp, khẳng định và dựng lập nên sự vững chắc của duyên khởi trung đạo.”3 Lý giải này, tôi từng dẫn chứng nhiều lần, nhưng có một số người cảm thấy rằng Trung luận là căn cứ kinh Bát-nhã mà tạo. Điều này cũng khó trách! Luận sư Ấn độ của Thuận Trung luận, Bát-nhã đăng luận, v.v., đã nói như vậy. Tôi cũng không nói rằng, Trung luận và kinh Bát-nhã không có liên quan, mà là nói: Long thọ vốn thâm ngộ pháp môn Bát-nhã, không như một số học giả Đại thừa, cho rằng Đại thừa có riêng một nguồn gốc pháp riêng, mà tôi khẳng định là Phật pháp cùng một nguồn gốc. Nhưng thông thường, những học giả Thanh văn đặt nặng sự phân biệt sự tướng, đã làm mất đi nghĩa sâu xa của lời Phật thuyết. Cho nên chính những lời được nói trong kinh A-hàm, phát sanh sự chấp trước khác nhau của các bộ phái, tiến hành phá bỏ từng cái, mà làm hiện rõ nghĩa sâu xa của kinh A-hàm, cũng chính là tông với nghĩa sâu xa của Bát-nhã. Từ những luận chứng ở trước đã nói qua, bây giờ lại trình bày như sau:4

1. Bài tụng quy kỉnh của Trung luận thuyết minh về duyên khởi qua tám phủ định. Duyên khởi là điểm đặc sắc của Phật pháp khác với ngoại đạo, duyên khởi là trung đạo ly cả hai bên. Bàn về duyên khởi mà gọi là “trung” (luận), là A-hàm chứ không phải là Bát-nhã. Trong trung đạo, trung đạo là không phải thường không phải đoạn, như kinh Tạp A-hàm nói: “(cho rằng) tự mình làm, tự mình biết (cảm thọ), đó là rơi vào thường kiến; (cho rằng) người khác làm, người khác biết (cảm thọ), đó là rơi vào đoạn kiến. Ta thuyết nghĩa, thuyết pháp, ly hai cả hai bên này, ở nơi trung đạo mà thuyết pháp, đó là cái này có nên cái kia có, cái này khởi nên cái kia khởi,…”5 Trung đạo là không phải một không phải khác, như kinh Tạp A-hàm nói: “Nếu thấy ai nói mạng tức là thân, thì điều đó người Phạm hạnh kia không có; nếu lại thấy có người nói mạng khác thân khác, thì điều đó người Phạm hạnh không có. Đối với (cái chấp) hai bên này, tâm không theo bên nào, chỉ hướng đến trung đạo, bậc Hiền thánh xuất thế có chánh kiến như thật không điên đảo rằng: duyên sanh nên có lão tử, …duyên vô minh nên có hành.”6 Trung đạo là không đến không đi, như kinh Tạp A-hàm nói: “lúc nhãn (thức) sanh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. …trừ pháp tục đế, pháp tục đế là cái này có nên cái kia có, cái này khởi nên cái kia khởi.”7 Trung đạo không sanh không diệt, kinh A-hàm gọi là vô vi – chỉ cho niết-bàn.8 Niết-bàn là sự chấm dứt, tịch diệt của khổ, trong kinh A-hàm, là y cứ vào “cái này không nên cái kia không” của duyên khởi mà triển khai. Dùng tám sự phủ định để giải thích về thuyết duyên khởi là trung đạo, có nguồn gốc sâu xa từ kinh Tạp A-hàm thuyết, thì làm sao hoài nghi được!

2. Trung luận dùng lời Phật thuyết để dẫn chứng, phần lớn đều từ kinh A-hàm. (1) Phẩm Quán bản tế nói: “Bậc Đại thánh đã nói, không thể đắc bản tế”, xuất xứ từ kinh Tạp A-hàm nói: sanh tử từ vô thỉ, … luân hồi lâu xa, không biết được bờ mé của khổ.” Kinh nói “sanh tử từ vô thỉ”, Long thọ trích dẫn và quy vào không nghĩa “vì sao do hí luận, nên có sanh, lão, tử”.9 (2) Phẩm Quán hành, nói: “Như trong kinh Phật nói, hư cuống, vọng, chấp tướng”. Bởi các hành là hữu vi, do vì mê lầm nên chấp trước mà thành, vì niết-bàn là không mê lầm nên Long thọ giải thích rằng: “Phật nói đến điều này, muốn biểu thị nghĩa Không”.10 (3) Phẩm Quán hữu vô, nói: “Phật diệt chấp hữu - vô, vì dạy Ca-chiên-diên, lời được nói trong kinh, lìa hữu cũng lìa vô”. Điều này, kinh Tạp A-hàm nói: “Thế gian có hai điều y cứ, hoặc hữu, hoặc vô. … Vì y trên chánh tri kiến mà biết như thật về sự tập khởi của thế gian, thì không cho rằng thế gian này là vô (ly vô); vì y trên chánh tri kiến mà biết như thật về sự hoại diệt của thế gian, thì không cho rằng thế gian là có (ly hữu) – đó gọi là lìa hai bên, y trên trung đạo mà nói.”11 Duyên khởi trung đạo là lìa hai bên hữu và vô, là giáo chứng trọng yếu của Trung luận. (4) Phẩm Quán Tứ đế nói: “Thế tôn biết pháp này, tướng sâu xa vi diệu, kẻ ngu chẳng thể hiểu, cho nên không muốn nói.” Điều này, kinh Tăng nhất A-hàm nói: “Nay Ta có pháp sâu xa, khó hiểu khó rõ, khó có thể biết được, … Giả sử ta thuyết diệu pháp này cho người khác, thì người ấy không thể tin hiểu, cũng không thể thực hành. … Nay Ta nên im lặng, không cần phải nói pháp!”12 Trong các bộ Quảng luật, trước khi Phạm thiên thỉnh thuyết pháp, cũng có chép “không muốn thuyết pháp”. (5) Phẩm Quán Tứ đế nói: “Vì vậy trong kinh nói: nếu thấy pháp nhân duyên, thì có thể thấy Phật, thấy Khổ, Tập, Diệt, Đạo”, như là kinh Đạo can13 đã nói. Thấy duyên khởi tức thấy pháp (Tứ đế), như kinh Tượng tích dụ14 trong Trung A-hàm đã nói. (6) Phẩm Quán Niết-bàn nói: “Như trong kinh, Phật nói: đoạn hữu, đoạn phi hữu”. Điều này, trong kinh Tạp A-hàm nói: “(Sáu nhập xứ) sau khi đã đoạn tận, ly dục, tịch diệt, an tĩnh, chìm mất, cũng không nên nói là có, cũng không nên nói là vô. … ly các hư ngụy (hí luận), đắc bát-niết-bàn, đây chính là lời Phật dạy.”15

3. Trung luận có tổng cộng 27 phẩm. Thanh Mục thích cho rằng: 25 phẩm trước, “dùng Ma-ha-diễn để nói đạo đệ nhất nghĩa”, 2 phẩm sau “nói đến phương pháp để Thanh văn nhập vào đạo đệ nhất nghĩa.16 Luận Vô úy cũng nói như thế. Nhưng căn cứ theo đoạn đã nói ở trên, văn dùng để chứng minh cho tám phủ định của duyên khởi trung đạo, phần lớn là dẫn lời trong kinh A-hàm, nên tôi không thể đồng ý với sự phân chia như thế. Đối tượng được quán xét và bàn luận của Trung luận không có thuật ngữ của Đại thừa, như bồ-đề tâm, sáu ba-la-mật, mười địa, trang nghiêm Phật độ…, mà là pháp nghĩa của A-hàm và A-tỳ-đạt-ma. Trung luận là y cứ theo thứ tự của Tứ đế, chỉ là dùng sự quán xét xủa hành giả Đại thừa, khơi mở nghĩa lý sâu xa của kinh A-hàm, cùng với nghĩa tướng sâu xa của Đại thừa khế hợp mà thôi. Ở đây không ngại phân tích sơ lược: (1) phẩm Quán (nhân) duyên, quán sự tập khởi của duyên khởi là không phải sanh từ đâu; phẩm Quán khứ lai, quán sự diệt tận của duyên khởi là không phải đi về đâu. Hai phẩm này, quán sự không sanh (không diệt), (không đến) không đi của duyên khởi, là tổng quán đầu đuôi của tám phủ định; các phẩm về sau là biệt quán. (2) Phẩm Quán lục tình, phẩm Quán ngũ ấm, phẩm Quán lục chủng (giới), tức là quán sáu xứ, năm ấm, sáu giới, luận cứu trung đạo thế gian – khổ. (3) Phẩm Quán sự nhiễm và kẻ bị nhiễm, là quán về pháp phiền não; phẩm Quán tam tướng, quán hữu vi – ba tướng do phiền não tạo ra. Phẩm Quán sự làm và kẻ làm, phẩm Quán bổn trụ, phẩm Quán nhiên khả nhiên, chứng minh người làm và kẻ thọ nhận đều bất khả đắc. Cùng với hai phẩm ở trước kết hợp, chính là luận cứu về nghĩa sâu kín của sự do phiền não mà chiêu cảm sanh tử, kẻ làm cũng tức là kẻ thọ quả. (4) Phẩm
Quán bổn tế, chứng minh sự tìm về bản tế của sinh tử là không thể đạt được; phẩm Quán sự khổ, chứng minh sự khổ không phải là do chính mình, kẻ khác, hoặc cả hai, hay không có nguyên nhân mà có, mà chính là y trên duyên sanh. Phẩm Quán các hành, chứng minh tính không của các hành. Phẩm Quán sự hòa hiệp, chứng minh sự vô tính của ba hòa hợp sinh ra xúc. Phẩm Quán hữu vô, chứng minh pháp duyên khởi là chẳng phải có, chẳng phải không. Phẩm Quán sự trói buộc và cởi mở, từ sanh tử lưu chuyển mà nói đế sự hoàn diệt, từ sự trói buộc của sanh tử mà nói đến sự giải thoát. Phẩm Quán về nghiệp, lại nói đến điểm cốt yếu tạo nên sự nối tiếp của sanh tử. Từ phẩm Quán Quán sự nhiễm và kẻ bị nhiễm về sau, tổng thảy có 12 phẩm, luận cứu về trung đạo của sự tập khởi thế gian. (5) Phẩm Quán pháp, chứng minh về hiện quán của sự biết pháp và nhập pháp. (6) Phẩm Quán thời, phẩm Quán nhân quả, phẩm Quán thành hoại, chứng minh ba đời, nhân quả và sự được mất, là có quan hệ đến luận đề trọng yếu của sự tu chứng. (7) Phẩm Quán Như lai, giải thích về bậc giác ngộ khai sáng chánh pháp. (8) Phẩm Quán điên đảo, chứng minh sự vô tánh của ba độc, nhiễm tịnh, bốn điên đảo. Phẩm Quán tứ đế, chứng minh sở ngộ về lý chân thật. Phẩm Quán Niết-bàn, quán về nghĩa chân thật của Niết-bàn là vô vi, vô thọ. Từ phẩm Quán về pháp đến đây, luận cứu về trung đạo của sự tịch diệt tập khởi thế gian. (9) Phẩm Quán mười hai nhân duyên, chánh quán về duyên khởi. Phẩm Quán tà kiến, viễn ly tà kiến. Hai phẩm này, luận cứu về trung đạo của con đường tịch diệt của thế gian.

Mối quan hệ của Trung luận và kinh A-hàm là có thể thấy chính xác và rõ ràng. Nhưng A-hàm nói về không, không có rõ ràng như giống như Trung luận, không nói rõ là tất cả pháp là không. Nói đến các loại không, nói tất cả pháp là không, là kinh Bát-nhã của Đại thừa Sơ kỳ. Kinh Bát-nhã nói không, chủ yếu là nghĩa sâu kín của Phật pháp, là sự ngộ nhập của các bậc Bất thối Bồ-tát, cũng là chung của các bậc Thanh văn Thánh giả. Phương tiện thuyết pháp của kinh A-hàm và kinh Bát-nhã có khác nhau, nhưng bởi đều lấy sự không tịch, không còn hí luận làm mục tiêu hướng đến, cũng chính là lý tưởng cùng cực của người học Phật, nên không thể nói là có khác nhau. Thời đại của Long thọ, Phật pháp nhân vì không ngừng phát triển mà đã phân hóa thành nhiều bộ phái, giữa các bộ phái có những quan điểm khác nhau rất rối ren, không thể nhất quyết cái nào là đúng. Trung luận nói: “Nếu ai cho có ngã, các pháp tướng khác nhau, thì phải biết người đó, không được vị Phật pháp”, “kẻ trí cạn nhìn pháp, cho có hoặc không tướng, nên không thể thấy được, pháp an ổn tịch diệt.”17 Các bộ phái Thanh văn, hoặc cho là có ngã, có pháp, hoặc cho là ngã không nhưng pháp có; hoặc cho rằng tất cả các pháp là có, hoặc cho là bộ phận có nhưng bộ phận không. Những quan điểm rối ren khác nhau này, cùng với ý nghĩa của kinh A-hàm đã có khoảng cách rất lớn. Cho nên Trung luận dẫn dụng lời trong kinh A-hàm, nhằm phân tích, đả phá vọng chấp của các bộ phái (và ngoại đạo), nêu bật ý nghĩa như thật của Phật pháp. Như phẩm Quán pháp (phẩm 18), thì pháp (dharma) là đối tượng giác ngộ và chứng nhập của hàng Thánh giả.18 Phẩm Quán pháp, từ sự quán vô ngã và ngã sở mà khế nhập vào sự tịch diệt, chính là ý nghĩa của kinh A-hàm. Cuối phẩm này nói: “chẳng một cũng chẳng khác, chẳng thường cũng chẳng đoạn, đây là vị cam lộ, giáo hóa của Thế tôn. Nếu Phật không ra đời, hay Phật pháp diệt tận, trí của Bích-chi Phật, từ viễn ly mà sanh.”19 Bài kệ trên là tổng kết pháp Thanh văn, bài kệ dưới là nói đến vị Bích-chi Phật xuất ly vào thời không có vị Phật nào ra đời; Thánh giả của hàng Nhị thừa đều là như thế mà ngộ nhập pháp tánh. Cho nên, hoặc cho rằng 25 phẩm đầu là thuyết minh về đệ nhất nghĩa của Đại thừa, 2 phẩm sau là thuyết minh về đệ nhất nghĩa của Thanh văn, là điều mà tôi không thể tán đồng. Lại như phẩm Quán tứ đế (phẩm 24) nói: “Bởi vì có nghĩa Không, tất cả pháp được thành. Nếu không có nghĩa Không, thì tất cả không thành.”20 y cứ trên Không mà tất cả pháp được thành lập, pháp xuất thế là Tứ đế - Pháp, Tứ quả - Tăng, Phật, cũng chính là Tam bảo; pháp thế gian là tội phước, nghiệp báo của sanh tử. Tóm lại, y cứ trên những điều mà kinh A-hàm nói, đả phá các nghĩa khác, nêu bật chân nghĩa của Phật thuyết, chắc chắn là lập trường của Trung luận. Đương nhiên ở đây không nói Trung luận không liên quan đến Đại thừa, mà là nói: lập trường tất cả pháp là không mà Trung luận xiển minh, là nghĩa như thật của Phật pháp, thông với cả Nhị thừa; như muốn luận cứu về Đại thừa, thì đây chính là nghĩa như thật của Đại thừa, căn cứ trên đây mà mở rộng sự thực hành và chứng ngộ của Đại thừa. Cho nên, Long thọ vốn đã có cái nhìn sâu sắc về Đại thừa, phân tích nghĩa lý của kinh A-hàm (và luận thư A-tỳ-đạt-ma), mà đã liên kết A-hàm với các kinh Đại thừa như Bát-nhã, v.v. Nếu như Phật pháp mà quả thật có từ “thông giáo”, thì có thể nói Trung luận là “thông luận” Phật pháp điển hình vậy!



1 Triệu luận, T.45, 151a.

2 Trung luận, T.30, q.1, 1b.

3 Trung quán kim luận, Diệu vân tập, Trung quán kim luận, 18, 24.

4 Tham khảo sđd 3, tr. 18-23. Trung quán luận tụng giảng ký, Diệu vân tập, Trung quán luận tụng giảng ký, tr. 43-46.

5 Tạp A-hàm, T.2, q.12, tr.85c.

6 Tạp A-hàm, T.2, q.12, tr. 84c.

7 Tạp A-hàm, T.2, q.13, tr.92c.

8 Tạp A-hàm, T.2, q.12, tr.83c.

9 Trung luận, T.30, q.2, tr.16a-b. Tạp A-hàm, T.2, q.10, tr.69b.

10 Trung luận, T.30, q.2, tr.17a.

11 Trung luận, T.30, q.3, tr.20b. Tạp A-hàm, T.2, q.12, tr.85c.

12 Trung luận, T.30, q.4, tr.33a. Tăng nhất A-hàm, T.2, q.10, tr.593a-b.

13 Trung luận, T.30, q.4, tr.34c. Phật thuyết Đạo can kinh, T.16, tr.816c.

14 Trung A-hàm, Tượng tích dụ kinh, T.1, q.30, tr. 467a.

15 Trung luận, T.30, q.4, tr.35b. Tạp A-hàm, T.2, q.9, tr.60a.

16 Trung luận, T.30, q.4, tr.36b.

17 Trung luận, T.30, q.2, tr.15c; và q.1, tr.8a.

18 Phẩm Quán pháp của Trung luận, cùng với bản Hán dịch: Bát-nhã đăng luậnĐại thừa Trung quán thích luận, tên phẩm giống nhau, mà bản lưu truyền tại Tây tạng, bản chú giải của Nguyệt xứng gọi là phẩm Quán ngã, Vô úy luận, v.v. gọi là phẩm Quán ngã và pháp, ý nghĩa xưa của “pháp”, có một số người đã quên mất.

19 Trung luận, T.30, q.3, tr.24a.

20 Trung luận, T.30, q.4, tr.33a.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét