LÊ QUÍ ĐÔN
VỚI PHẬT GIÁO
Thích Nhuận Thịnh
Lê Quí Đôn (1726-1784) là một
danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều
đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan, đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một
nhà bác học, đã để lại một gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều
thơ, phú bằng chữ Nôm khác.[1]
Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục,[2] là
một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền
tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc Thiền phái Trúc lâm. Trong
bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu quan điểm của Lê Quí Đôn về Phật
giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền tông Việt Nam mà ông đã chép.
Mở đầu thiên Thiền dật, Lê
Quí Đôn đã khái quát tinh hoa của Nho giáo chính là nằm ở sách Trung Dung.
Ông xem cương thường, luân kỉ, lễ nhạc, v.v., đều là do trời đất sáng lập, và
Thánh nhân, chỉ cho các nhà Nho, giảng giải những điều ấy là nhằm làm sáng tỏ đạo
Trời, giáo dục con người trở nên chánh trực…
Tuy ông là một Nho sĩ, nhưng
không quá câu nệ vào tư tưởng Nho gia, mà có cái nhìn thiện cảm với cả Lão giáo
và Phật giáo. Bởi lẽ, ông nhận thấy rằng, lời dạy của Phật giáo và Lão giáo đều
trọng ở sự thanh tĩnh, hư vô, siêu việt, tịch diệt mà không hệ lụy vào sự vật…,
cũng là những lời dùng để tu thân, và cũng rất cao siêu. Bên cạnh đó, ông thẳng
thắn phê bình sự chấp trước và câu nệ hình thức nên hay bắt bẻ của các Nho sĩ,
nhất là, thái độ phỉ báng cả Tiên và Phật của họ, mà nguyên nhân chính theo
ông, đó là thiên hạ thì quá rộng lớn, phong tục, tập quán, tư tưởng, v.v., của
các nước khác nhau rất nhiều, mà các Nho gia đem cái tri thức hạn hẹp của mình
để phán xét các điều lạ lẫm, linh thiên, v.v., thì đó là cái nhìn quá nhỏ mọn,
kém cỏi. Qua đây, ông đã gián tiếp khuyên các nhà Nho ở nước ta nên có thái độ
phóng khoáng, đừng nên lúc nào cũng tự tôn rằng chỉ có Nho giáo là cao vời nhất,
bởi vì những gì chúng ta hiểu được thì quá nhỏ bé, ngay cả về mặt địa lý đã thấy
trở ngại, huống gì những điều huyền vi diệu pháp của Thánh nhân sao có thể hồ đồ
mà bài xích được.
Chúng ta có thể dễ dàng nhận
thấy rằng, sở dĩ Lê Quí Đôn có cái nhìn thiện cảm với Phật giáo là bởi ông phát
hiện những giới luật của Phật giáo, cụ thể là 6 giới: tham-sân-si và dâm-sát-đạo,
hoàn toàn phù hợp với 3 giới của đức Khổng tử là: sắc, đấu, đắc. Trong 3 giới
mà đức Khổng tử dạy, thì sắc khởi đầu từ si mê, tột cùng của nó là dâm; đấu là
đấu tranh, khởi đầu của nó là sân, tột cùng là giết hại; đắc là sự ham muốn thủ
đắc, mà khởi đầu của nó là tham, tột cùng là trộm cắp. Điểm tương đồng mà Lê
Quí Đôn nhận thấy, tức là 6 giới của Phật giáo và 3 giới của đức Khổng tử,
chung qui cũng nhằm giúp con người tu thân, dưỡng đức. Tuy vậy, 6 giới của Phật
giáo không chỉ giúp con người trở thành một con người trong sạch, hay nói khác
hơn là trở thành một người tốt của xã hội, hoặc là một ‘chân quân tử’ như lời đức
Khổng tử, mà 6 giới của đức Phật còn hướng đến mục tiêu đặc biệt, đó là giác ngộ,
thành tựu Niết-bàn. Trong khi ấy, 3 giới của đức Khổng tử chỉ dừng ở mức làm
cho con người được chân chánh, người không tham sắc dục là người chung thỉ với
vợ mình, không có tà dâm; tột đỉnh của giết hại, theo Nho giáo, là giết người,
nhưng Phật giáo còn chủ trương xa hơn là không giết cả những sinh vật vô tội nữa;
còn giới không nên tham lam, trộm cắp, Nho giáo chỉ dừng lại ở mức là không
tham lam tài vật của người khác, còn Phật giáo, ngay đến cả thân bằng, quyến
thuộc, thậm chí thân thể của mình cũng không chấp trước vào nó, chính thái độ
phóng xả hoàn toàn như vậy, mới có khả năng đạt đến sự giải thoát toàn vẹn. Đức
Khổng tử dạy phải trung quân, ái quốc, nhưng như thế thì đã bảo người ta có sự
phân biệt, đây không phải là vua của ta, kia không phải là nước, là dân của ta,
và hẳn nhiên, khi đã có phân biệt như vậy thì phải có đấu tranh, để giữ nước, bảo
vệ vua của ta, v.v., đó cũng là gốc của đấu tranh rồi.
Như vậy, Lê Quí Đôn chỉ mới
dừng lại ở mức hiểu khái quát về giới của Phật giáo, mà chưa thấy cái sâu sắc của
nó, nên ông có thái độ đánh đồng nó với 3 giới của đức Phu tử. Do đó, ông kết
luận rằng: “Người nào có thể thụ bẩm được những lời răn trên đây của Phu tử là
đã thành Phật rồi,”[3] là một lời vội vã và cạn cợt
quá vậy!
Kế đến, ông đã dẫn sách Thượng
thư cố thực nói rằng: “Phật giáo thuộc về sao Quỷ…,” và chuyện chư thiên
nói: “Đại Thánh thái tử và sao Quỷ đã hợp lại…,” và tin đó là sự ứng nghiệm.[4]
Tuy nhiên đó là chuyện ‘bịa đặt’ của các sách vở ở Trung Hoa thôi, qua đây cũng
cho thấy sự ‘dễ tin’ của ông vậy!
Đặc biệt, ông tuyển những đoạn
dạy về đạo trị nước, được ghi chép trong sách Thái bình quảng ký và Pháp
uyển châu lâm, để cho thấy rằng Phật giáo cũng dạy về đạo trị nước. Cụ thể,
sách Thái bình quảng ký dẫn lời của Thiền sư Na-bạt-ma đáp câu hỏi của Tống
Văn đế: “Đế vương và dân thường tu hành khác nhau… Đế vương lấy bốn bể là nhà…”
Còn Pháp uyển châu lâm thì dẫn lời Phật kể chuyện chim Anh vũ khuyên vua
nước Ca-thi: “Có bảy việc trái phép có thể gây ngụy hại cho thân thể của vua… bồi
dưỡng cho muôn loài.” và sách này còn nói: “Ta nhờ xưa biết hiếu dưỡng nên nay
mới được thành Phật.”[5]
Còn về đạo hiếu, ông cũng
cho chúng ta biết rằng Phật giáo cũng chú trọng đạo hiếu chứ không phải Phật
giáo chủ trương bác bỏ hiếu đễ và đi ngược lại truyền thống của Trung Quốc. Ông
dẫn đoạn “Ta nhờ xưa biết hiếu dưỡng nên nay mới được thành Phật” trong sách
Châu lâm đã dẫn trên, và một đoạn trong kinh Lăng nghiêm rằng: “Phật bảo
A-nan rằng: Ta và em cùng khí huyết… bỏ hết thế gian nặng ân ái?” Ông cũng dẫn Kim
cương luận và đoạn kinh Lăng nghiêm khác cũng nói về tư tưởng hiếu đạo.
Như vậy, đối với Lê Quí Đôn, Phật giáo cũng dạy về đạo trị nước, tề gia, hiếu đạo
như là Nho giáo, nhưng Phật giáo thì nói được cụ thể và thâm thiết hơn rất nhiều.
Đó là phát kiến của ông, nhưng trước đó khoảng 16 thế kỷ, trong Lý hoặc luận,
Mâu tử đã biện giải vấn đề này rồi.[6]
Về mặt nhân và nghĩa của Nho
giáo, thì Phật giáo cũng có dạy như thế, đó là sự làm lợi cho người, lợi mình.
Do đó, ông cho rằng: “Tôi nghĩ, đại để thì tôn chỉ của pháp môn cho rằng thế
gian này tất cả đều hư vọng, cho nên phải tu thành chân giác để có thể siêu
thoát ra khỏi lục trần. Khi đã thành vô thượng diệu đạo thì tất nhiên sẽ thương
xót chúng sanh và phổ thi phương tiện… chứ không phải bỏ hết luân thường đạo lý
đâu.”[7]
Đây là lời nhận xét rất xác
đáng của ông về Phật giáo, bởi đức Phật không bác bỏ luân thường đạo lý, tức là
cái đạo làm người. Để làm một con người tốt, xa hơn là tránh bị quả báo khổ
đau, Phật dạy người tại gia hay xuất gia đều phải giữ 5 giới căn bản là không sát
sanh, không trộm cướp, không tà dâm (người xuất gia thì cấm hẳn dâm), không nói
dối, không uống rượu. Ngoài ra, trong kinh Thiện Sanh,[8] đức
Phật đã dạy tỉ mỉ về bổn phận của cha mẹ đối với con cái, con cái đối với cha mẹ,
chồng với vợ, vợ với chồng, v.v.
Phật giáo chủ trương từ bi,
nhưng từ bi phải có trí huệ thì mới đúng đắn được, Lê Quí Đôn cũng đồng ý như
thế, nên ông đã dẫn sách Thái bình quảng ký kể về lời của nhà sư Nhất Hạnh
rằng: “…Chút từ tâm nhỏ là giặc của từ tâm lớn. Lời của ác quỷ lấy gì để bảo đảm
được,” và ông kết luận rằng: “Trộm nghĩ phép quan cũng vậy. … không thể nhân từ
với kẻ cố ý.”[9] Thật ra, Phật giáo không
những nhân từ với người lương thiện và với kẻ ngu dại trót lầm lỡ, mà đối với kẻ
gian tà nhũng nhiễu, những kẻ cố ý. Đối với những kẻ ác, Phật giáo đồng ý phải
trừng trị họ, nhưng quan trọng nhất là dùng đạo lý để cải hóa họ trở thành
lương thiện, đó là làm cho chính họ đánh thức cái bản tánh hiền thiện của chính
họ, chứ không chủ trương loại họ ra khỏi hẳn xã hội, như chuyện Phật đã cảm hóa
tên cướp Ương-quật-ma-la (Aṅgulimāla)
trở thành Tỳ-kheo và sau đó đạt được quả A-la-hán (Arhat). Đây là điểm đặc biệt
mà chúng ta không thấy có trong Nho giáo.
Lê Quí Đôn cũng tin vào thuyết báo ứng, nên khi đọc Thái
bình quảng ký chép những chuyện linh ứng khi đọc kinh Kim cương,
kinh Quan âm, kinh Cứu khổ. Đó là những người tin tưởng kinh Phật
giáo, đọc tụng nên được cảm ứng. Ông cũng tin tưởng chuyện vua Chu Cao tổ nung
chảy tượng Phật, đốt cháy kinh Phật nên bị quả báo là lở lói, 7 ngày rồi qua đời,
sau đó vận nước cũng đổi thay. Và chuyện Chu Thế tông bắn trúng vú của tượng Phật
nên sau đó cũng bị ung thư vú mà chết, như Vương Củng đã chép trong Tạp lục.
Đây là một điểm nữa, mà Lê Quí Đôn nhận thấy rất tương đồng với thuyết báo ứng
mà trong Kinh Thư và Kinh Dịch đã chép. Tuy nhiên, ông vẫn còn bị
hạn chế trong tư tưởng ‘thực dụng’, tức là những chuyện báo ứng trong một đời,
nguyên nhân và kết quả xảy ra trong thời gian ngắn, hay trong một đời người nên
tin được, còn kinh Phật nói đến nhân quả trong 3 đời thì ông không kiểm chứng
được, nên đi đến khẳng định rằng: “Kinh sách nhà Phật nói về kiếp trước và kiếp
sau, nghe mông lung không thể hiểu được.”[10] Thật
ra không phải chỉ mình Lê Quí Đôn nghi ngờ về vấn đề đó, mà còn có rất nhiều
không tin có luật nhân quả ảnh hưởng trong cả 3 đời.
Lê Quí Đôn cũng dẫn chứng đoạn kinh Lăng-già nói về
10 giới, và xem kinh này có giá trị rất cao, mang tác dụng thức tỉnh người đời.
Tuy vậy, kinh Lăng-già không chỉ dừng lại ở việc nói về 10 giới, mà còn
bàn đến tư tưởng Như lai tạng, thức A-lại-da, v.v. Vì nó quá cao siêu, mà người
không có nghiên cứu toàn bộ hệ thống giáo lý, cũng như tu tập theo Phật giáo
như ông thì sẽ rất khó hiểu, có lẽ vậy nên ông chỉ đề cập đến 10 giới mà không
bàn đến tư tưởng khác trong kinh này.
Như vậy, chúng ta thấy Lê Quí Đôn đã nhìn ra được khía cạnh
tích cực nơi Phật giáo, nên không tái phạm sai lầm như những nhà Nho tại Trung
Hoa, đem cái nhìn thiển cận của mình để chê bai Phật giáo, điển hình là Hàn Dũ,
Vương An Thạch và Vương Dương Minh. Như Hàn Dũ nói: “Nay [Lão giáo và Phật
giáo] muốn trị tâm, nhưng lại để tâm ra ngoài thiên hạ và quốc gia…;” còn Vương
Dương Minh thì nói: “Nhà Phật sợ cái khổ lụy của cha con… nên chạy trốn.”[11] Đó
là cái nhìn sai lầm, xuất phát từ sự không am hiểu Phật pháp, cũng như lòng tị
hiềm và tự tôn Nho học quá đáng của những người này.[12]
Về mặt Nhân sinh quan, Lê Quí Đôn cho rằng chủ trương thân
con người được tạo nên từ 4 yếu tố (Tứ đại, hay còn gọi là Tứ hành) là đất – nước
– lửa – gió của Phật giáo, được dẫn trong kinh Viên giác, là hoàn toàn
tương đồng với thuyết Ngũ hành của Nho giáo.
Ngoài ra, ông còn tin vào yếu tố Mật tông, bằng cớ là dẫn
sách Thái bình quảng ký nói về phương pháp thoát nạn khi gặp kẻ ác, bằng
cách cầm dao hoặc sừng tê giác, lấy đầu ngón tay cái bấm vào đốt thứ 3 của ngón
giữa ở cùng bàn tay trái, rồi đọc thần chú: Cát trung cát ca tuất luật đề trung
hữu luật đà ha bà ca ha.
Ông còn đặc biệt xưng tán kinh Lăng nghiêm là “bộ
kinh huyền bí nhất của Thiền gia, không những là ý nghĩa sâu rộng mà văn pháp
cũng cao siêu, biện luận và phân tích rất tỉ mỉ, từ dùng rất khí thế, có thể
nghiêng sông lật núi. Sách này nói rằng Pháp vương là đại hùng, đại biện. Thật
đáng tin lắm.”[13] Nhưng kinh này cao siêu
như thế nào thì ông không nói rõ.
Có thể nói, Lê Quí Đôn là người đầu tiên, ít nhất là với những
tác phẩm Phật giáo thời sau khi Phật giáo truyền vào nước ta cho đến đời của
ông còn bảo tồn được, đã chú trọng đến việc giải thích (hoặc sao chép lại sách
Phật giáo từ Trung quốc) các Pháp số của Phật giáo, có cả phần phiên âm tiếng
Phạn, hay giải thích các từ phiên âm tiếng Phạn sang tiếng Việt. Tuy rằng, số
lượng từ mà ông giải thích còn hạn chế trong số lượng từ ít ỏi, nhưng cũng đủ
cho thấy tinh thần khoa học của ông, đó là tinh thần có nhu cầu hiểu biết từ
nguyên gốc của từ vựng Phật học.[14]
Qua đây cũng đặt ra cho người Việt Nam nào hiện đang học Phật, cần phải học hỏi
Phạn ngữ để hiểu ý nghĩa gốc của những từ Phật học để lý giải giáo lý Phật giáo
cho chính xác.
Một điểm đáng chú ý trong thiên Thiền dật này, là Lê Quí
Đôn dẫn lại lời của ông Chu Tử phê bình Phật giáo. Đại khái, Chu Tử cho rằng
ban đầu khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, chỉ có vài quyển kinh được dịch
sang Hán ngữ, như kinh Tứ thập nhị chương, Di giáo, Pháp hoa,
Kim cương, [Kim] Quang minh. Những lời trong các kinh này bất quá
cũng chỉ bàn về “thanh, hư, duyên, nghiệp và những thuật thần thông biến hóa. Về
sau, các học giả như Huệ Viễn, Tăng Triệu mới bắt đầu cóp nhặt lời của Trang,
Liệt mà thêm vào.”[15]
Có lẽ đây là một sự nhầm lẫn của Lê Quí Đôn, nhưng chúng ta
có thể thông cảm được, vì ông là một Sử gia Việt Nam nên việc xảy ra trong nước
thì bằng cách này hay cách khác, ông có thể kiểm chứng được, nhưng về lịch sử
Phật giáo thì hẳn là với số tài liệu đang có trong tay, không thể giúp cho ông
có đủ điều kiện để xét lại vấn đề, nên ông chỉ chép lại lời của Chu Tử mà không
bàn gì thêm. Thật ra, Chu Tử nói lời đó chỉ là ‘đánh lận con đen’, nhằm thỏa
mãn cho mục đích bài xích Phật giáo của ông ấy mà thôi.
Khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, với sự khác biệt về
ngôn ngữ, phong cách tư duy, thì người Trung Quốc khó lòng tiếp nhận được triết
học Phật giáo được. Do đó, các nhà Phật học lúc ấy, như La-thập, Huệ Viễn, Tăng
Triệu mới dùng khái niệm và từ ngữ có sẵn trong văn hóa cũng như triết học của
Trung Quốc lúc bấy giờ để dịch và giảng Phật giáo, đó gọi là phương pháp cách
nghĩa, nhờ đó mà Phật giáo mới bắt đầu được phổ biến, bời vì người Trung Quốc
thấy Phật học, qua lời giảng của những vị ấy, gần gũi với tư tưởng sẵn có của
dân tộc mình.[16] Điểm cần lưu ý ở đây là
chỉ mượn từ ngữ chứ không mượn tư tưởng. Về sau, các nhà Phật học thấy được sự
sai lầm ấy nên đã chỉnh đốn lại. Ngay như trong Liệt tử tự (列子序) của Trương Trạm (張湛) – một học
giả đời Đông Tấn, cũng đã nói rõ rằng: “Nhưng nhằm làm rõ tông chỉ ấy, nên thường
thường tham chiếu với kinh Phật, rồi quy tất cả về tư tưởng Lão, Trang.”[17] Như vậy là quá rõ ràng, chính Phật giáo đã ảnh
hưởng ngược lại đến tư tưởng triết học Trung Quốc, tuy nhiên, chúng ta cũng
không thể phủ nhận rằng tư tưởng triết học Trung Quốc không có ảnh hưởng gì đến
Phật giáo Trung Quốc.[18]
Tóm lại, qua nghiên cứu thiên Thiền
dật của Lê Quí Đôn, điều chúng ta có thể khẳng định ngay rằng, ông là một Nho
sĩ có thiện cảm với Phật giáo. Tuy rằng, sự tiếp cận của ông về Phật giáo chỉ ở
mức ban đầu, tức là chỉ ở những điểm mà ông cho là Phật giáo tương đồng với Nho
giáo, mà chưa đi tìm hiểu được những giáo lý sâu sắc hơn của Phật giáo. Điểm hạn
chế của ông là không có nguồn sử liệu dồi dào về Phật giáo, và tất nhiên ông chỉ
đọc được vài bản kinh mà vào thời của ông, chúng đang được lưu hành. Bởi vậy
ông vẫn có những nhận định còn sơ sài, mà có lẽ ông cũng không có đủ thời gian
để nghiên cứu những tư tưởng sâu sắc hơn ở trong kinh Lăng-già, Lăng-nghiêm,
Pháp hoa, v.v. Ngoài ra, ông chép lại lời của Chu Tử mà không bàn luận
gì thêm, chứng tỏ là ông đang đứng trên phương diện là sử gia, biên chép mà
không luận, nên không rõ là ông có đánh giá gì về nhận xét đó.
Có thể nói, công lao to lớn của ông
đối với Phật giáo Việt Nam nói chung, và Thiền phái Trúc lâm nói riêng, là sao
chép lại những thi ca của các Thiền sư, đặc biệt là hành trạng của ba vị Tổ của
Thiền phái Trúc lâm, cũng như toàn bộ ngữ lục của Thiền sư Hương Hải. Đặc biệt
Lê Quí Đôn cho rằng, Tam tổ Huyền Quang xuất gia vào năm 19 tuổi, chứ không hề
đi thi và đỗ Trạng nguyên.
Qua những ghi chép của ông, chúng ta
cũng hình dung được một phần nào tình trạng Phật giáo vào đời Hậu Lê, tuy rằng
Phật giáo không còn hưng thịnh và phát triển mạnh trong tầng lớp phong kiến, mà
có lẽ nó đã phát triển thành phương pháp khác, đó là lan truyền và phát triển
trong quần chúng xã hội nhiều hơn. Và chúa Trịnh Cương ở Đàng ngoài cũng mộ Phật
giáo, vào năm 1724 (thuộc niên hiệu Bảo Thái đời vua Lê Dụ Tông) đã sai mở rộng
chùa Nguyệt Đường và cấp hơn 50 mẫu đất cho chùa.
Như vậy, vào đời Lê, Phật giáo vẫn
phát triển, và kinh điển đang lưu hành lúc ấy, toàn bộ đều là những kinh Đại thừa,
như Lăng-nghiêm, Lăng-già, v.v., mà Lê Quí Đôn đã dẫn.
THƯ MỤC THAM
KHẢO
-
Nguyễn Q. Thắng,
Từ điển Tác gia Việt nam, Nxb. Văn Hóa-TT, Hà Nội, 1999.
-
Lê Quí
Đôn tuyển tập, Tập 5 – Kiến
văn tiểu lục, Nguyễn Khắc Thuần dịch – hiệu đính – chú thích, Nxb. Giáo Dục, Hà
nội, 2009.
-
Hoằng
minh tập, q. 1, Mâu tử lý hoặc luận,
T. 52, No. 2102.
-
《長阿含經》卷11, 善生經 (12), T. 1, No. 1.
-
Phùng Hữu Lan,
Lịch sử Triết học Trung quốc, Lê Anh Minh dịch, Nxb. Khoa Học Xã Hội, Hà
Nội, 2007, tập 2.
-
護法論, T. 52, No.
2114.
-
Dương Bá Tuấn,
Liệt Tử tập thích, (Hán ngữ), Trung Hoa thư cục xuất bản, 1979.
-
Lữ Trừng, Trung
Quốc Phật học nguyên lưu lược giảng (Hán ngữ), Trung hoa thư cục xuất bản,
Bắc Kinh, 1979.
[2] Lê
Quí Đôn toàn tập, Tập 5 – Kiến văn tiểu lục, Nguyễn Khắc Thuần dịch – hiệu
đính – chú thích, Nxb. Giáo Dục, Hà nội, 2009, tr. 186-309.
[11] Phùng
Hữu Lan, Lịch sử Triết học Trung quốc, Lê Anh Minh dịch, Nxb. Khoa Học
Xã Hội, Hà Nội, 2007, tập 2, tr. 469, 671.
[12] Về sự
bài bác Phật giáo của Hàn Dũ và Vương An Thạch, Thừa tướng Trương Thương Anh đã
phản biện trong Hộ pháp luận, xin xem: 護法論, T.
52, No. 2114.
[17] Xin
xem: Dương Bá Tuấn, Liệt Tử tập thích, (Hán ngữ), Trung Hoa thư cục xuất
bản, 1979, tr. 279.
[18] Xem
thêm: Lữ Trừng, Trung Quốc Phật học nguyên lưu lược giảng (Hán ngữ),
Trung hoa thư cục xuất bản, Bắc Kinh, 1979, bài giảng thứ 3, tr. 43-65.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét