edward
conze
☸
NHỮNG
NGHIÊN
CỨU PHẬT HỌC
TRONG
BA MƯƠI NĂM
Thích Nhuận Châu
dịch
☸
VÀI DÒNG VỀ TÁC GIẢ
Edward Conze (1904-1979)
☸
Giới Phật tử và những người quan tâm đến
Phật học ở miền Nam trước 1975, nhất là giới sinh viên Đại học Vạn Hạnh và Văn
Khoa Huế, Sài gòn, chắc ai cũng quen thuộc với tên tuổi nầy qua tác phẩm Buddhism–Its
Essence and Development; được chuyển ngữ sang tiếng Việt do Chân Pháp
Nguyễn Hữu Hiệu, một gương mặt nổi bật của khung trời Vạn Hạnh hồi đó, với nhan
đề Tinh hoa và sự phát triển của Ðạo Phật. Trong suốt gần 25 năm sau,
chúng ta ít thấy bản dịch nào của E. Conze xuất hiện, nhưng sự cống hiến của
Ông trong lĩnh vực nghiên cứu Phật học không dừng lại ở những gì chúng ta biết
được một cách đầy thán phục với phong cách của bậc thầy qua tác phẩm hiếm hoi
mà chúng ta được tiếp cận về Ông.
Điều đáng thán phục nhất là ông không
dừng lại ở phong cách của một nhà nghiên cứu, một học giả tinh thông, mà ông đã
tiến rất xa, vượt qua các học giả cùng thời với ông và nổi tiếng trên nhiều
lĩnh vực, để thực sự làm một hành giả thể nhập. Điều nầy thể hiện qua những
trang khảo cứu của ông, khi đề cập đến phần uyên áo của tư tưởng, ông bao giờ
cũng giữ một tinh thần tôn kính đúng mực, không bao giờ có sự phê phán thiên lệch
dựa trên tư kiến. Chúng ta để ý qua những vấn đề ông trình bày trong tập sách
mỏng nầy, khi đề cấp đến những vấn đề tế nhị như Tiểu thừa, Đại thừa, ông không
bao giờ có ý phê phán chủ quan, hoặc nói theo những người khác đã nói, mà luôn
luôn thể hiện tấm lòng tôn trọng giáo pháp. Hoặc khi đề cập đến những vấn đề
rất phức tạp như Mật tông, ông luôn luôn có cách lý giải rất sáng suốt, tinh tế
để người đọc không bị rơi vào sự hiểu lầm, không nhìn đạo Phật bằng định kiến
hoặc hiểu bằng khái niệm.
Tuy nhiên, Ông cũng có những nhận xét rất sâu sắc và táo bạo, như khi
ông nhận định về Thân Loan, người xiển dương Tịnh độ Chân tông Nhật Bản, và sự
đối chiếu với phương pháp hành trì của Phật giáo Thượng toạ bộ ở Tích lan:
“Chủ nghĩa duy
lý chính thống của Phật giáo Tích Lan có cái nhìn về đạo Phật vốn như bị cắt
xén và bần cùng hoá như tính chất duy tín ngưỡng (fideism) của Thân Loan, và
không ngẫu nhiên mà cả hai (Thân Loan và Phật giáo Tích Lan) đều được đặt vào vùng
địa lý ngoại vi của thế giới Phật giáo.” (Thirty years of Buddhist studies).
Sở dĩ thành tựu
được những điều đáng nói trên, là do ông đã chuyên tâm tu tập đạo Phật thật sự
như một hành giả. Đó là thời gian ông đã thực hành theo tinh thần của ngài Phật
Âm (Buddhaghoṣa) trong luận giải mang tính chỉ nam đối với Phật giáo Nguyên thuỷ là Thanh tịnh đạo
luận (Visuddhimarga), mà trong thời gian chiến tranh, ông đã sống và tu tập
thiền định trong một chiếc xe lưu động caravan tại khu rừng New Forest. Ông đã
áp dụng phương pháp thiền tập theo sự hướng dẫn của Ngài Phật Âm qua bộ luận
nầy và ít nhiều đã đạt được một vài mức độ khả quan trong kinh nghiệm hành
thiền. Ông chia xẻ cảm nhận của mình về bộ luận nầy như sau: “... Như tất cả
những tác giả ở thế gian này, Buddhaghosa cũng có những khuyết điểm. Nhưng đó
chỉ là những lỗi nhỏ, và ông đã soạn một trong những tác phẩm đạo học vĩ đại
nhất của loài người. Nếu phải chọn một cuốn sách độc nhất để mang theo với mình
ra một hoang đảo thì đây sẽ là cuốn sách của tôi” (...Like all human authors,
Buddhaghosa has his faults. But these are minor irritants, and he has composed
one of the greatest spiritual classics of mankind. If I had to choose just one
book to take with me on a desert island, this would be my choice) ”
Và người đã có
ảnh hưởng lên tâm thức ông nhiều nhất, như để tạo một lực phóng cho ông đến
chân trời cao rộng đấy vinh quang nầy chính là D.T. Suzuki, sự tiếp xúc ý nghĩa
đầu tiên của Conze đối với Đạo Phật vẫn là ở tuổi trung niên, tức là đầu Thế chiến
thứ hai và nhất là khi ông đọc các tác phẩm của D.T Suzuki. Và từ đó, Edward
Conze đã cống hiến trọn đời mình cho Phật Giáo, nổi bật nhất là phiên dịch và
chú giải Kinh Bát Nhã. Chúng ta thấy được tinh thần đó qua lời đề tặng D.T
Suzuki nhân kỷ niệm sinh nhật thứ 90 của ông trong tác phẩm The Development
of Prajñāpāramitā Thought, do Yamagucchi biên tập, ấn hành ở Kyoto năm
1960.
Sau nầy, sự
ngưỡng mộ đầy tinh thần tri ân đó đã làm cho hai người gắn kết với nhau để tạo
ra được nhiều hoa trái, đó là sự cộng tác để hình thành tác phẩm On Indian
Mahāyāna Buddhism, hoàn thành năm 1968.
Chúng ta nghe một người cùng thời với
Conze, Tiến sĩ Arthur Waley nhận định về phong cách và tư tưởng ông như sau:
“Đối với Tiến sĩ Conze, những câu hỏi mà Phật Giáo đặt ra và trả lời là những vấn
đề sống động và ông luôn luôn liên kết
những câu hỏi này với lịch sử và với thực tại.”
Về văn hệ Bát-nhã, Edward Conze là người
có thẩm quyền hàng đầu về Kinh Bát Nhã (Mahāprajanapāramitā Sūtra). Trong tác phẩm “Wisdom Books”
ông nói về những kinh sách dung chứa tất cả những giáo lý cốt tủy của Đại Thừa
mà trong nhiều thế kỷ đã được phổ biến ở Trung Hoa, Nhật Bản, Mông Cổ và Tây
Tạng. Ông làm cho những giáo lý này dễ hiểu bằng cách giải thích tất cả những
từ ngữ và đa số những luận điểm trong Kinh Kim Cương (Diamond Sutra) và
Tâm Kinh Bát Nhã (Heart Sutra). Các nhà nghiên cứu Phật Giáo nói rằng “đây là
chiếc chìa khóa vô giá đưa đến trí huệ hoàn hảo vốn là điều quan tâm của tất cả
những nhà tư tưởng sáng tạo.” (this is an invaluable key to that perfection
of wisdom which was once the concern of every creative thinker). Ông là giáo sư Ấn Độ học ở Đại học Washington.
Ông có công trong việc thiết lập một chương trình Tiến sĩ Phật Học. Dù thế nào
đi nữa, thành quả thực sự của ông trên hai mươi năm sau đó là phiên dịch và sớ
giải hoàn tất 30 kinh sách các loại thuộc hệ tư tưởng Bát-nhã, kể cả hai bản
kinh quan trọng nhất của Đại thừa Phật giáo là Bát-nhã Tâm kinh (Hṛdaya)
và Kinh Kim Cang.
Trong hai thập niên sáu mươi và bảy mươi,
ông đã đi diễn thuyết ở nhiều trường Đại học ở Mỹ, và ông đã được các sinh viên
nhiệt liệt tán dương công đức, nhưng ông lại bị Ban Giám Hiệu các trường Đại
học và một số đồng nghiệp phản đối.
Ông là người đã góp phần đưa đạo Phật vào
Âu Châu, tiếp sức cho công trình bậc Thầy đi trước là Suzuki. Ông nói về Phật
giáo Âu Châu như sau: “Các nhà truyền giáo Dòng Tên (Jésuit) của Ky-tô giáo
trong thế kỷ 17 và thế kỷ 18 đã biết khá chính xác về đạo Phật Trung Hoa và
Nhật Bản, nhưng một triết gia người Đức, Athur Schopenhauer, là người đầu tiên
làm cho Âu Châu biết về Phật giáo như một tín ngưỡng sống thực. Không biết gì
về kinh sách Phật Giáo, chỉ được hướng dẫn bởi triết lý của Kant, một bản dịch
tiếng La Tinh từ một bản dịch tiếng Ba Tư của Áo nghĩa thư (Upaniṣad) của Ấn Độ
giáo và sự thất vọng với cuộc đời, đến năm 1819, Schopenhauer đã lập một hệ
thống triết lý với chủ trương “Phủ nhận ý chí sống” (Negation of the Will to
live) và xem sự cảm thông là hạnh cứu rỗi độc nhất, và do đó có khuynh hướng
rất giống tinh thần từ bi của Đạo Phật. Những ý tưởng của Schopenhauer được
trình bày một cách sống động và dễ đọc đã có ảnh hưởng lớn ở Lục địa Âu Châu.
Richard Wagner đã có ấn tượng mạnh mẽ với giáo lý Phật giáo và trong những năm gần đây Albert Schweitzer
sống một cuộc đời giống Schopenhauer đã đề ra”.
Ðối với Phật tử châu Âu, những trứ tác
của ông là tài liệu nghiên cứu tu tập Phật pháp quý báu không thể bỏ qua được.
Ông sinh ngày 18-03-1904 tại Forest Hill,
Lewisham, London trong một gia đình gốc Ðức. Cha của ông trước la một nhân viên
ngoại giao, sau lại quản lí một quan toà tại Düs seldorf, CHLB Ðức. Conze trưởng
thành và được giáo dục tại Ðức (lúc này mang tên Eberhard thay vì Edward sau
này) và nơi đây, ông sớm biểu hiện những cá tính đặc thù: sự cảm nhận nhạy bén
cho những vấn đề xã hội, lòng căm phẫn trước những trào lưu ‘ái quốc cực đoan
của toàn Đức quốc xã’, lòng yêu thiên nhiên và một cuộc sống tĩnh mịch ở thôn
quê.
Năm lên 13, Conze đã có dịp nghe chút ít
về Phật giáo. Ông học triết, tâm lí và Ấn Ðộ học tại những đại học Tübingen,
Heidelberg, Kiel và Köln. Tại Hei delberg, Max Walleser – một trong những người
đầu tiên dịch kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sang tiếng Ðức – đã hướng dẫn ông vào
Ðại thừa Phật pháp (1924/25) và qua Heinrich Rickert, ông cũng có dịp làm quen
với Thiền tông (j: zen). Năm 1928, ông làm luận án Tiến sĩ tại Köln với tựa đề Danh
từ Huyền học của Franciscus Suarez S. J. (g: Der Begriff der Metaphysik bei
Franciscus Suarez S. J.).
Ông là một trong những học giả, dịch giả
Phật giáo vĩ đại nhất ở Tây Phương. Là nhà nghiên cứu đứng đầu trong tất cả các
tông phái Phật Giáo, ông thông thạo những ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Trung Hoa,
Tây Tạng, Mông Cổ và Nhật Bản.
Năm 1932, ông cho xuất bản tác phẩm Phương
thức đối lập. Bình luận về lí thuyết Duy vật biện chứng (g: Der Satz von Wider spruch.
Zur Theo rie des Dialek ti schen Mate rialismus). Từ 1933 trở đi, ông sinh
sống bằng cách dạy tâm lí và triết học tại Oxford và London. Các tác phẩm của
D. T. Suzuki và một học giả Ấn Ðộ Har Dayal lại hướng dẫn ông trở về với Phật
giáo. Từ 1943-49, ông nghiên cứu rất nhiều về Ấn Ðộ học, gia nhập giáo hội Phật
giáo tại London (e: Buddhist society) và cũng tổ chức nhiều buổi thuyết giảng.
Trong những năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, ông đã cho xuất bản khoảng 20
quyển sách và hơn 100 tiểu luận về những vấn đề của Phật giáo và chính những
tác phẩm này đã làm cho tên ông lan truyền khắp mọi nước. Ông đã từng thuyết
giảng tại Wisconsin, Madison (Wisconsin, 1963/64), Washington, Seattle
(Washington, 1965/68), Bonn (1969/79) và Berkeley, Santa Barbara (1972/ 73).
Năm 1973, Conze đình chỉ việc thuyết
giảng, lui về quê nhà tại Sherborne, Somerset và từ đây chuyên chú vào việc
nghiên cứu Phật học. Trọng tâm nghiên cứu của ông chính là tư tưởng Bát-nhã
ba-la-mật-đa, và về vấn đề này, ông đã xuất bản hàng loạt tiểu luận. Ông cũng
đã dịch sang Anh ngữ và xuất bản nhiều bộ kinh thuộc hệ này.
Năm 1979, ông cho ra hồi kí với tựa đề The
Memoirs of a Modern Gnostic. Ông luôn luôn tự cho mình là một người có cá
tính mâu thuẫn. Conze có một cái nhìn, một cảm nhận sâu sắc cho những vấn đề,
nhân sinh quan khác biệt của thế kỉ này. Quyển hồi kí của ông đã chứng tỏ khả
năng, nghệ thuật ‘bao dung nhiều quan điểm’ của ông. Ðối với Conze, lối sống có
thể chấp nhận được là lối sống của người Anh> Ðạo lí có thể chấp nhận được
là Phật pháp.
Ông là một con người tiên phong, người mở
đường, và là một tấm gương sáng ngời cho thế hệ Phật tử Tây Phương sau ông
trong việc học hỏi, nghiên cứu, dịch thuật và tu tập theo Phật Giáo. Ông đã làm
việc không mệt mỏi và cống hiến hết tài năng của mình cho nền Phật Học Tây Phương
cho đến hơi thở cuối cùng, ông qua đời ngày 24 tháng 9 năm 1979 tại nhà riêng
của ông ở Sherborne, thành phố Dorset, phía Tây Nam Anh Quốc, thọ thế 75 tuổi.
Trong số những tác phẩm khác để lại cho
đời của ông là bản dịch “Hiện Quán Trang Nghiêm Luận” (Abhisamayālaṃkāra-śāstra)
xuất bản 1954; Selected Saying) xuất bản năm 1955; “Kinh Kim Cương
Bát-nhã” (Vajracchedika Prajñāpāramitā) biên tập và chuyển ngữ năm 1957;
“Tiểu Phẩm Bát Nhã” (Aṣṭasahasrika Prajñāpāramitā), bản dịch năm 1958; Buddhist
Scriptures biên tập năm 1959; The Prajñāpāramitā Literature, xuất
bản năm 1960; A Short History, xuất bản năm 1961; The Large Sutra on
Perfect Wisdom, xuất bản 1961; “Thủ bản Gilgit Tiểu Phẩm Bát-nhã; The
Gilgit Manuscript of the Aṣṭadasasahasika Prajñāpāramitā) biên tập và dịch
năm 1962.
Tổng hợp theo tài liệu:
• William Peiris (1973) The Western
Contribution to Buddhism.(1973). Motilal Banarsidass Publications, Delhi, India
• Sangharakshita (1996) Great Buddhists of the
Twentieth Century. Windhorse
☸
Người dịch
Thích Nhuận
Châu
NHỮNG
TIẾN TRIỂN GẦN ĐÂY
TRONG
NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC
☸
Thời
kỳ đầu
Cho đến năm 1935,
các nghiên cứu Phật học được phân thành ba trường phái riêng biệt.[1] Trường phái thứ nhất là Trường phái ‘Cựu
Anglo-German.’[2] Có T. W. Rhys Davids và H. Oldenberg là
những bậc thượng thủ của trường phái nầy, và trường phái ấy căn cứ trực tiếp trên
tạng Pāli, được cho là duy trì giáo lý Đức Phật một cách trung thành hơn các nguồn
nào khác. Mãi cho đến năm 1914, trường phái nầy mới có ảnh hưởng lớn đến toàn
cảnh, và từ đó, công chúng vẫn rút ra từ trường phái nầy những ý niệm gọi là Phật
giáo ‘nguyên thuỷ,’ ‘thuần tuý,’ và ‘đích thực.’ Thuộc về trường phái nầy, E.
J. Thomas trong tác phẩm của ông nhan đề History of Buddhist Thought ra
đời năm 1933, đã tóm tắt kiến thức (Phật học) đã thấm tràn đến Anh quốc từ thời
đó. Nhưng trong lúc ấy, sự nghiên cứu năng động đã chuyển dịch khỏi trường phái
nầy; trong giới nghiên cứu có ít, hoặc không có những đại biểu, và những quan
điểm của họ, thực tế là không đứng vững được.
Trường phái thứ
hai, giữ vị trí chủ đạo sau năm 1916, là trường phái Leningrad, dẫn đầu bởi Stcherbatsky.[3] Stcherbatsky, Rosenberg và Obermiller đã
cống hiến hết mình trong nghiên cứu nền văn hiến mang tính triết học kinh viện
Phật giáo, mà họ tin rằng những gì họ nghiên cứu là gần với giáo lý nguyên thuỷ
hơn là những điều được tái diễn một cách tuỳ hứng của giới học giả Châu Âu.
Những thành tựu lớn lao và không thể nghi ngờ của trường phái nầy đã trình bày
ý nghĩa chính xác của nhiều thuật ngữ Phật học chuyên môn, vốn xưa nay được phiên
dịch một cách thiếu hệ thống, hoặc là trên nền tảng của từ nguyên học hoặc có
nghĩa ‘chung chung–common sense.’ Nhưng từ nguyên học thi chưa đủ để định nghĩa
những thuật ngữ triết học, vốn thường có nhiều nghĩa rộng trong những hệ thống
triết học Ấn Độ đa dạng. Và do có nghĩa ‘chung chung–common sense,’ không có
cách nào để có thể phân biệt một cách triệt để hơn giữa quốc gia nầy với quốc
gia khác, giữa nền văn hoá nầy với nền văn hoá khác, hơn là cái nghĩa ‘chung
chung–common sense,’ được viện ra nầy, vốn trong thực tế chẳng gì khác hơn cái
mà Flaubert gọi là idées reçues–giả định[4] của một nhóm người nào đó. Trường phái
nầy thuyên giải Phật học với y cứ rất mật thiết không những vào những luận giải
của Ấn Độ mà còn dựa trên truyền thống sống động đang được tiếp nối của Tây
Tạng, Mông cổ, Trung Hoa và Nhật Bản. Tính chất tâm linh của đạo Phật Á châu có lẽ gần gũi với Đức Phật hơn những gì
mà Tin lành Châu Âu (Protestant Christians) tha thiết với tính tự phụ của chủ
nghĩa đế quốc. Bản dịch của Obermiller từ tác phẩm History of Buddhism (1931)
của Bu-ston[5] đã cho chúng ta thấy cách nhìn của người
Phật tử đối với lịch sử của họ như thế nào. Và kiệt tác của Bu-ston đã là mẫu
mực cho hai bộ lịch sử chung của Phật giáo xuất hiện đương thời bằng Anh ngữ,
một của chhính tôi, Buddhism (1951), và một của Sangharakshita nhan đề A
Survey of Buddhism (1957). Như vậy, trong khi giới không chuyên có học thức
đã nếm được vài hương vị tinh thần của trường phái Leningrad, sự giải thích của
Stcherbatsky về thuật ngữ ‘pháp–dharma’[6], về mặt số ít, và đặc biệt là số
nhiều–vẫn còn nhiều vấn đề để dạy cho ông ta.[7] Vẫn còn rất nhiều người không thể nào
hiểu đúng sự khác biệt căn bản giữa “pháp –dharmas” và “hiện tượng,
sự vật–things.” Từ ý nghĩa đó, trường phái Cựu Anglo-German đã xem Đức Phật
thị hiện như là một nhà đạo đức học (moralist), điểm quan trọng của những phân
tích triết học về thực tại trong các thành tố của nó, tức là pháp (dharmas),
đã bị lược qua. Thực tế, học thuyết về pháp (dharma-theory) chính là nền tảng
của mọi hình thái đạo Phật, và là điểm xuất phát của mọi sự phát triển sau nầy.
Ở đây tôi không thể đi vào chi tiết hơn và phải đề cập đến tóm tắt tuyệt hảo về
toàn cảnh của Von Glasenapp vào năm 1938.[8] Với sự qua đời của Stcherbatsky và
Obermiller vào thập niên 40, trường phái Leningrad không may đã đi dến chỗ
tuyệt diệt trong Liên bang Sô-viết, chẳng còn dấu tích nào để có thể truy tìm
trong thời đó.
Sau cùng, trường
phái mà Regamey gọi là “Franco-Belgian”, trường phái nầy được định hình một cách sắc
nét bởi những con người như De la Vallée-Poussin, Jean Przyluski, Sylvain Lévi,
Paul Demiéville và Etienne Lamotte. Regamey (pp. 247-8) đã mô tả phương pháp của
họ như sau: ‘Các học giả nầy tiếp tục đường lối của trường phái Nga. Tuy nhiên,
họ không theo đuổi Phật học theo lối triết học kinh viện một cách mù quáng, mà
dùng mọi nguồn tri thức mà ngày nay có thể dùng đến, bổ sung cho những phân
tích về ngữ văn và triết học của họ với những dữ liệu từ dân tộc học và xã hội
học... Họ phải từ bỏ những kết quả như là những nỗ lực để tái tạo lại một nền
Phật học thuần tuý, tin tưởng rằng đạo Phật cũng như nhiều kinh điển Phật học
đều là của chính Đức Phật, và tìm thấy toàn bộ diện mạo chân thật và sự dồi dào
của tôn giáo nầy trong nhiều mặt từ chính bối cảnh của nó, và vô số các tông
phái hay trường phái của nó.’ Trong khi trường phái Cựu Anglo-German đã chết ngay
từ sự trống rỗng, vô nghĩa, và trường phái Leningrad đã thoái trào do hoàn cảnh
xã hội không thuận lợi, những yếu tố cơ bản của trường phái Franco-Belgian đến
nay được các nhà nghiên cứu trên lĩnh vực nầy chấp nhận một cách rộng rãi, bất
luận trên quốc gia nào mà chúng ta đang sinh sống. Đây chính là điểm thay đổi
căn bản đã diễn ra trong hai mươi năm gần đây.
Nay chúng ta chỉ
đề cập đến thời kỳ đầu của lịch sử Phật giáo, tức 500 năm đầu tiên, từ thời kỳ
Đức Phật ra đời cho đến kỷ nguyên Thiên chúa giáo. Bối cảnh Kinh tạng Pāli lúc
nầy chính là vấn đề nền tảng, và hoàn toàn độc tôn trong sự thẩm định giá trị.
Đương thời mọi người đều hiểu rằng Pāli không phải là ngôn ngữ của Đức Phật, mà
là một phương ngữ của người dân miền Tây Ấn Độ. Chính Đức Phật đã dùng một dạng
ngôn ngữ của xứ Ma-kiệt-đà (Magadhi), và các lời dạy của ngài, đều không còn
nguyên dạng hình thái ngôn ngữ, cũng như những lời dạy của Jesus.
Tạng Pāli mà
chúng ta đang sử dụng, không cổ xưa hơn các tạng của những trường phái khác,
tức là của Nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādins). Uy tín của tạng Kinh nầy ở khắp Châu
Âu nhờ vào điều mà thực tế là nó thích nghi với tình trạng của Châu Âu, là duy
lý và đạo đức hơn các truyền thống khác, và ít nhiều dành cho lòng tín tâm mộ
đạo, thần thoại và huyền thuật. Kinh tạng Pāli nhấn mạnh vào phương diện đạo
đức Phật giáo, phương diện mà đạo Tin lành (Protestants) cũng thường đáp ứng.
Sự quan tâm của Đức Phật qua những lời dạy cuối cùng của ngài cung ứng cho
chúng ta một ví dụ rất ngạc nhiên. Trong kinh Trường A-hàm (Digha nikāya, XVI),
lời dạy nầy được ghi vayadhammā samkhārā appamadena sampādetha, có nghĩa
là ‘phải hoại diệt là các pháp hữu vi; hãy tinh tấn trên con đường tỉnh giác.’
Nhưng trong Kinh Đại bát niết-bàn (Mahāparinirvānasūtra (p. 394) của
Nhất thiết hữu bộ chúng ta chỉ thấy dòng
vyayadharmāh sarvasamskārdāh, có nghĩa là phải hoại diệt là các pháp
hữu vi. Chỉ là sự phát biểu về thực tế đời sống, không có một dòng nào cho
yêu cầu ‘nỗ lực,’cũng như vậy đối với các nhà đạo đức học Châu Âu!
Thực tế của vấn
đề là có đến 18 bộ phái trong thời kỳ đầu của lịch sử Phật giáo. Phần lớn, nếu
không nói là tất cả, đều có hệ thống kinh luận riêng của họ, và mỗi bộ phái đều
tuyên bố bình đẳng ngang nhau trong việc thể hiện giáo lý Đức Phật. Nếu Kinh
tạng của chỉ riêng một bộ phái, như của Thượng toạ bộ (Theravadins), đã cho
chúng ta tiếp xúc với cái nguyên vẹn và trong tính toàn thể của nó, đây không
phải là do phẩm chất nội tại hay phong tục cổ xưa hơn của nó, mà do tính ngẫu
nhiên của sự chuyển giao lịch sử. Cơn thịnh nộ cuồng tín của người theo Hồi
giáo (Mohammedans) đã phá huỷ toàn bộ những tư liệu của Phật giáo ở miền Bắc Ấn
Độ chưa bao giờ lan tới Tích Lan. Kinh điển của các trường phái ở miền Bắc phần
lớn bị huỷ mất, những phần còn sót lại được lưu giữ dưới dạng chữ viết chép tay
bằng tiếng Sanskrit ở Nepal và Tây Tạng, và phần lớn trong những bản dịch tiếng
Trung Hoa và Tây Tạng. Ở Anh quốc, tạng Pāli nhờ thêm vào vị trí của nó đối với
những biến cố xa hơn mà nó lọt vào tầm mắt của giới bảo hộ Anh quốc, và có hầu
như toàn bộ đã được phiên dịch bởi sự nhiệt thành cống hiến của hội Pāli Text
Society. Về phương diện nầy, chỉ dành cho những người đọc bằng Anh ngữ, do vậy
Thượng toạ bộ đã đi đến việc giữ một tầm mức quan trọng hoàn toàn thiếu cân
xứng.
Một trong những
điểm chính phát triển trong thời kỳ đang khảo chứng là các văn hệ của ít nhất
hai trường phái khác, đó là Nhất thiết hữu bộ và Ma-ha-tăng-kỳ (Mahāsaṅghikas)
hay Đại chúng bộ, đã trở nên thông dụng hơn đối với độc giả Châu Âu. Nhất thiết
hữu bộ là trường phái có ưu thế đỉnh cao khá lâu ở Ấn Độ. Giáo sư Waldschmit và
các học giả Đức quốc đã biên tập và đang biên tập nhiều kinh luận quan trọng
nhất của trường phái nầy, mà tính kiên định của người Turkestan đã giữ gìn số
kinh điển nầy trong dạng Sanskrit. Thuộc về giá trị nổi bật là công trình của Giáo
sư Waldschmidt về Kinh Đại bát niết-bàn (Mahā parinirvāna sūtra), mô tả
những sự kiện liên hệ đến những ngày cuối cùng của Đức Phật. Không những ông tả
chỉ ấn hành ấn bản lộng lẫy từ kinh văn tiếng Sanskrit, tiếng Pāli, với bản
dịch tiếng Tây Tạng và Luật tạng tiếng Hán với hai cột song song.[9] Nhưng chúng ta cũng nhờ vào ông ta một phân
tích kỹ lưỡng nhất trong tất cả các tư liệu.[10] Ba phần tư của bản văn, như ông ta trình
bày (p. 336), có một nền tảng chung, tuy nhiên, trong đó có nhiều điểm đã được
thực hiện vào một thời gian sau. Chúng ta có thể kết luận rằng những phần chung
nầy phải dõi ngược lại đến năm 250 ttl., nếu không muốn nói là lâu hơn.[11] Hoàn toàn rõ ràng trong tương lai, tư
liêu phong phú của Nhất thiết hữu bộ nầy phải được tham khảo bởi các sinh viên
bằng sự cẩn trọng cũng như đối với các tư liêu bằng tiếng Pāli. [12]
Tương tự như
vậy, có sự gia tăng lượng thông tin của chúng ta về Ma-ha-tăng-kỳ hay Đại chúng
bộ, nơi mà sau nầy các nhà Đại thừa phát triển. Trước hết là bản dịch của J. J.
Jones về Đại sự (Mahāvastu; The Great Event), gồm 3 quyển, (từ
1949 đến 1956).
Ấn bản của Sénart về bộ sách quan trọng nầy,
vào năm 1882-1897, góp phần không nhiều cho sự nhận thức sâu sắc về đạo Phật,
vì ngôn ngữ của bộ sách này cực kỳ khó và chán ngắt. Nay nhờ vào Tiến sĩ Jones,
độc giả người Anh có thể nghiên cứu vào lúc thanh thản những sưu tập các mẫu
chuyện thú vị, truyện ký và các pháp thoại, vốn trình bày một cách minh bạch và
hùng biện về tôn giáo, tách bạch hẳn với khía cạnh triết học, đạo đức của đạo
Phật. Một tư liệu quan trọng khác là Luật tạng của Ma-ha-tăng-kỳ (Mahāsanghikas)
hay Đại chúng bộ. Phần lớn tư liệu nầy bị ẩn tàng trong tạng tiếng Hán. Năm 1946
Hofinger khảo sát 8 đề mục trong kinh điển liên quan đến Hội nghị kết tập kinh
điển ở thành Vệ-xá-li (s: vaiśālī),[13] năm 380 B.C, và đi đến kết luận rằng bộ
luận này thuộc Đại chúng bộ rõ ràng là cổ xưa nhất trong tất cả các bộ luật.
Do vậy, có điều
chắc chắn rằng, tất cả các nhà nghiên cứu về thời kỳ đầu tiên của đạo Phật, từ
đó trở về sau phải dành sự chú ý bằng nhau đối với các nguồn tư liệu, dù là
Thượng toạ bộ, Nhất thiết hữu bộ hay Đại chúng bộ. Như Giáo sư Waldschmidt
(1948, II 353) đã phát biểu rằng, ‘Không phải là hiếm khi bản kinh Đại bát
niết-bàn (Mahā parinirvāna sūtra)– bản tiếng Sanskrit–có lẽ đã lưu giữ
truyền thống nguyên thuỷ một cách trung thành, và nó ít nhất có cùng giá trị
như kinh tạng Pāli, và ông nói thêm: ‘Cả hai nguồn tư liệu ‘Phật giáo miền Bắc’
hay Phật giáo miền Nam’ đều quan trọng ngang nhau để tìm hiểu chắc chắn truyền
thống lâu đời nhất.’ Tương tự, J. J. Jones (II p. x) đồng ý rằng chúng ta phải
xúc tiến từ giả đinh rằng cả kinh văn tiếng Pāli và tiếng Sanskrit đều được lưu
giữ như là một cốt lõi chắc chắn cho một truyền thống rất nguyên thuỷ.’ ‘Trong
tất cả các kinh văn, bất luận ngôn ngữ nào, sớm hay muộn, các giai tầng (strata)
đều bị tiêu mất.’ Có khi kinh tạng Pāli là ‘nguyên thuỷ hơn,’ và có lẽ đó là
tác phẩm Đại sự.[14]
Hofinger (p.
257) diễn tả cùng một ý kiến, có nghĩa là ‘Một lần nữa, kinh tạng Pāli phải đi
xuống từ bệ cao mà nó đã an trụ quá lâu; nó không có giá trị gì hơn tư liệu
kinh văn tiếng Hán và tiếng Tây Tạng, và có khi nó còn thấp hơn hai tạng nầy
nữa.’
Nhưng nếu tất
cả Kinh Phật, như chúng ta đã có, xác định thời điểm lùi lại không xa hơn khởi
đầu kỷ nguyên Thiên chúa giáo, thì làm sao chúng ta có thể biết được điều gì về
những dòng trước đó? Một số nội dung của Kinh Phật phải chắc chắn là có rất
sớm, trong khi những dòng khác chắc chắn là có muộn hơn, và thường rất khó để
xác định niên đại của từng lớp khác nhau. Nhiều ví dụ cho thấy rằng đạo Phật
đúng là có thói quen duy trì việc cập nhật kinh điển của mình bằng sự bổ sung
liên tục qua hằng thế kỷ. Chúng ta không thể học cách xử sự ở Tích lan (Ceylon),
nơi mà mọi tư liệu biểu hiện thời kỳ sớm hơn đều đã bị hư hoại. Ở miền Bắc, tuy
nhiên, đôi khi chúng ta vẫn còn nhờ các bản dịch tiếng Hán, liên tục có nhiều
bản dịch cùng một bộ kinh để có thể xác định niên đại. Một ví dụ hay nhất đó là
Kinh Kim Quang Minh,[15] mà Giáo sư Nobel[16] đã nghiên cứu rất tỉ mỉ trong suốt 20
năm gần đây.
Bộ kinh vĩ đại nầy bắt đầu bởi một bài Sám hối
(Confession of Sins) tương đối ngắn, bấy giờ đó là phẩm thứ ba, trong bản dịch
hiện đang lưu hành là phẩm thứ 19. Vài thế kỷ sau, có bản dịch của ngài Nghĩa
Tịnh, đã phát triển thành 31 phẩm, phong phú với vô số đà-la-ni (dhāraṇī), thêm
vào nhiều luận giải–về thuyết Tam thân Phật, sự chuyển hoá sạch nghiệp chướng
trong đời quá khứ do khi tạo nhân tu tập tâm linh, về nữ thần Sarasvati ...
Tương tự như vậy, chúng ta có thể đối chiếu bản dịch Hộ Quốc tôn giả sở vấn
kinh [17] của ngài Trúc Pháp Hộ[18] từ bản tiếng Sanskrit mà gần đến ba thế
kỷ thứ sau chúng ta mới có được, và tìm thấy những đoạn kinh như là dự báo sự
suy thoái của tăng đoàn, danh mục của các truyện Bản sanh (Jatakas) và nhiều
bài kệ được thêm vào sau nầy. Chính tôi đã chứng minh cho một tiến trình tương
tự của các phần kinh được phát triển thêm trong Bát thiên tụng Bát-nhã[19] và điều ấy có khả năng xảy ra đối với
Kinh Kim Cang.[20]
Chúng ta phải ghi nhớ thêm trong lòng
rằng sự sắp xếp Kinh tạng, và sự phân
chia thành ba tạng là rất muộn, nếu chỉ vì đồng thuận chung về tạng thứ ba, có
nghĩa là Luận tạng (A-tỳ-đạt-ma–Abhidharma), chỉ định hình sau thời kỳ của vua
A-dục.[21] Trước đó, chỉ có Kinh và Luật tạng, Kinh
gồm có 12 thể loại hay 9 thể loại.[22] Mười hai thể loại là: 1. Khế kinh (sūtra), 2. Trùng tụng (重 頌; s:
geya) hoặc Ứng tụng. 3. Thụ kí (受 記; s: vyākaraṇa), 4. Phúng tụng (gāthā),
5. Vô vấn tự thuyết (udāna) 6. Nhân duyên (因 緣; s: nidāna), 7. Thí dụ (譬 喻;
s: avadana) 8. Bản sự 本 事(itivṛttaka), 9. Bản sinh (本 生; s: jātaka), 10. Phương quảng (方 廣) hoặc
Phương đẳng (方
等;
s: vaipulya), 11. Hi pháp (希 法; s: addhutadharma) hoặc Vị tằng hữu (未 曾 有), 12.
Luận nghị (論
議;
s: upadeśa).[23]
Bản kinh sắp xếp thể loại theo
cách như thế nầy bây giờ đã mất, dù cách sắp đặt tự nó đã lưu lại dấu ấn trong Kṣudrakanikāya
của nhiều tông phái khác nhau.
Khó mà biết được khi nào và
ở giai đoạn nào mà 9 hay 12 thể loại Kinh xuất hiện, nhưng chúng ta có thể gán
cho một cách hợp lý vào thời kỳ trước vua A-dục, vì người ta đã quên đi một
dòng văn học nhất định đã thay đổi tính chất của đạo Phật và khiến cho nó trở
thành như ngày hôm nay. Tôi muốn đề cập đến Mātṛka,[24] Vào năm 1944, E. M. Hare trong bản dịch
tinh vi của ông về Tập bộ Kinh (Suttanipāta),[25] thường được cho là một trong những bản
kinh xưa nhất bằng tiếng Pāli, đưa ra ánh sáng sự thực rằng ‘thể thức nổi bật
nhất của bốn bộ Nikāya hầu như bị bỏ sót trong Tập bộ Kinh (Suttanipāta).’(p.
216). Ông ta liệt kê Bát chánh đạo, Tứ diệu đế, Tam quy y, Tam bảo, Tam pháp ấn
(vô thường...), Ngũ uẩn, Ngũ (hay lục) trí, Tứ, bát hoặc cửu phạm trụ (Jhānic
abidings).
Đây quả thực là
một dữ kiện thực sự đáng ngạc nhiên, đặc biệt khi so sánh với quán sát nổi bật từ những bản khắc trên trụ
đá của vua A-dục, tương tự như vậy, ở đó
không bao giờ đề cập đến những pháp số nầy. Sự bỏ qua của họ trên những bản
khắc nầy có thể được nói rằng vua A-dục, là một vị cư sĩ, chỉ nói về các pháp với
các lĩnh vực có liên quan đến hàng cư sĩ. Nhưng bàn cãi như vậy rõ ràng không thích
đáng đối với Tập bộ Kinh (Suttanipāta). Dường như trong một giai đoạn
lịch sử nào đó của các tông phái, khá muộn hơn, truyền thống dựa
nhiều hơn vào các pháp phát triển trong số các nhà duy lý (rationalists)
để thành A-tỳ-đạt-ma (Abhidharma), và phát
triển trong các nhà huyền học (mystics) để thành Bát-nhã ba-la-mật-đa (Prajñā
pāramitā).
Tầm nhìn của
những mối quan tâm nầy là hoàn toàn không có tính phê phán để nhảy từ các kinh
điển đang tồn tại trở lui lại với thời kỳ Đức Phật. Chắc chắn không còn diên
trì lâu hơn để đi qua Kinh tạng Pāli, dành lấy phần thích nhất của mình, và gọi
đó là ‘giáo lý nguyên thuỷ.’ Phương thức đó, rất dễ áp dụng, và do vậy, quá thông
dụng, chịu nhận không có kết luận khách quan hợp lý. Thực vậy, tất cả mọi điều
mà người ta có thể nỗ lực làm là lùi lại từng bước và ở đây là sơ đồ của giai đoạn
một phải ghi nhớ trong tâm:
*năm 480 BC.
-
Đức Phật giảng pháp.
-
Đức Phật nhập niết-bàn
-
Giáo lý của tăng đoàn nguyên thuỷ nhất
-
Ý tưởng ‘Kinh tạng nguyên thuỷ.’
* năm 340 BC - Đại chúng bộ // Thượng toạ bộ
Skandhaka
* năm 280 BC
9 hay 12 thể loại kinh - Ðộc Tử bộ[26] // Thượng toạ
bộ
Aśoka (274-236 BC)
* năm 244 BC - Vibhajyavādins// Nhất thiết hữu bộ
Mātṛka
➘
*năm 100 BC. abhidharma
prajñāpāramitā
Tam tạng Kinh điển được
thể hiện qua ngôn ngữ -
Nói cách khác, trước
khi chúng ta có thể đến với Đức Phật, chúng ta phải đi qua vua A-dục. Trong một
kiệt tác khảo cứu đầy năng lực sáng tạo của Giáo sư Frauwailner về Giới luật
thời kỳ nguyên thuỷ và khởi nguyên văn học Phật giáo (Earliest Vinaya and
the Beginnings of Buddhist Literature) vào năm 1956, đã chứng tỏ rất dứt khoát rằng
trước thời vua A-dục, đã có một tác phẩm đồ sộ là Skandhaka,[27] phân chia và sắp xếp vô số những vật dụng cần thiết liên quan đến
luật tắc tu viện theo một ý tưởng dự kiến rất phù hợp. Tác phẩm ấy điều chỉnh
thể chế căn bản tự viện Phật giáo, sự gia nhập Tăng đoàn, nghi thức sám hối, an
cư vào mùa mưa, và đề cập đến y phục, thực phẩm và thuốc cho người bệnh, cũng
như những luật tắc để giám sát các sự xử phạt và phạm giới. Cuốn Skandhaka
nầy đúng là tác phẩm văn học đầu tiên mà qua đó, chúng ta có được vài kiến thức
nhất định.
Phần còn lại,
chúng ta phải kiên nhẫn đối chiếu các bản văn đã được duyệt lại của các trường
phái khác. Tài liệu được lưu truyền đến chúng ta về ‘18 bộ phái’ là trong một
điều kiện rất hỗn độn, nhưng vào năm 1955, A. Bareau đã đưa trật tự vào trong
cái hỗn độn bằng tác phẩm của mình nhan đề Các trường phái Phật giáo Tiểu
thừa (Les sectes bouddhiques du petit véhicule, 308 pp.), một tác
phẩm hoàn toàn không thể thiếu đối với các học giả từ thời đó trở đi. Điều tác
phẩm đã làm được là đối chiếu tư liệu từ nhiều trường phái, như kinh văn của
Thượng toạ bộ từ Tích lan với kinh văn của Nhất thiết hữu bộ bằng tiếng Pāli và
một tiếng Sanskrit, đều nhất trí với nhau từng chữ một, chúng ta có thể kết
luận rằng nó thuộc về một thời điểm trước khi có sự phân chia hai bộ phái, vốn
xảy ra trước thời gian trị vì của vua A-dục. Nơi mà họ không đồng ý với tôi có
thể là, sự thiếu sót các chứng cứ với điều ngược lại, suy luận ra niên đại
trước thời kỳ vua A-dục. Nhiều tác phẩm đã được thực hiện trong dòng nầy vào
thời kỳ của chúng ta đang đề cập, nhưng không có khảo chứng một cách có hệ
thống để cho kết quả có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, tiếp cận nầy không thể
cho chúng ta vượt qua năm 340 B.C. với các bản kinh, vì các kinh văn của Đại
chúng bộ đã bị mất hẳn. So sánh 10 văn kiện đã được duỵệt lại về giới bản
Ba-la-đề-mộc-xoa (Prātimokṣa), mặt khác, W. Pachow đã trình bày vào năm 1955
rằng các bộ phái đều nhất trí toàn bộ, và do vậy, giới bản ấy phải được hình
thành chính xác trong thế kỷ đầu tiên sau khi Đức Phật nhập niết-bàn.
Một vài nỗ lực
đã được thực hiện để quay trở lại kinh tạng nguyên thuỷ thông qua việc nghiên
cứu ngôn ngữ. Nơi nào chúng ta có hai bản kinh tương tự bằng cả hai thứ tiếng
Pāli và Sanskrit, chúng ta có thể tin chắc rằng bản tiếng Sanskrit đã được dịch
lại từ bản tiếng Pāli hay ngược lại. Đó là nhờ công của Giáo sư Lueders[28] đã chứng tỏ rằng trong nhiều trường hợp,
điều nầy kà không thể có và thực tế là phần lớn các phần của cả hai bản kinh đã
duyệt lại đều được dịch từ bản gốc tiếng Ma-kiệt-đà (Magadhi). Rất hay là điều
nầy khiến cho chúng ta có thể đánh dấu sự suy tàn của một truyền thống, hoặc là
do sự hiểu lầm về phần của người dịch nguyên bản, hoặc là ở phần kinh văn bằng
thể loại kệ tụng, cho đến việc khó khăn để tìm ra bản tiếng Pāli hay tiếng
Sanskrit tương đương mà không làm hỏng vần luật. Trong bài kệ 259, Kinh Pháp cú
chẳng hạn, có đoạn vô nghĩa: dhammam kāyena passati.[29] Bản tiếng Prakrit dùng từ phaṣai
(tiếp xúc; e: touches), bản tiếng Sanskrit dùng vai spṛṣet; bản
gốc tiếng Ma-kiệt-đà là phāsai, bản Pāli tương đương với bản nầy dùng
phusati, không sát nghĩa với âm vận thi kệ (pp. 162-3). Ví dụ nhỏ nầy có
thể cho thấy phương thức sử dụng như thế nào. Tính thuyết phục nằm ở chi tiết thuộc
ngữ văn (philological), chúng ta không thể trình bày hết ở đây. Phần lớn tư
liệu của Lueders dường như là để chứng minh luận đề của ông, nhưng dĩ nhiên,
điều nầy chứng minh được nhiều điều hơn là phần còn lại của Kinh tạng được dịch
sang ngôn ngữ Ma-kiệt-đà. Những phần khác phải dõi ngược về nguồn gốc Trung Ấn
(Middle-Indian), như Edgerton[30] đã cho thấy rõ nét. Thực ra, từ rất sớm,
Phật pháp đã được thuyết giảng bằng nhiều phương ngữ đa dạng, và trong kinh Cullavagga
(5.3), Đức Phật đã đồng ý cho thông lệ nầy. Những khảo sát về ngôn ngữ nầy vẫn đang
còn ở điểm khởi đầu. Tuy nhiên, nên được làm rõ ràng hơn, rằng trước khi được
hoàn chỉnh, nó phải chịu cực kỳ mạo hiểm để có vài quan điểm về nội dung kinh tạng nguyên thuỷ và nhiều hơn như vậy về
những lời dạy đích thực của Đức Phật.
Thực ra, không
có người ôn hoà nào có thể tự mình phát biểu một kết luận về giáo pháp của Đức
Phật. Dù người ấy ở trong tăng đoàn cựu trào nhất cũng khó xác quyết. Một vài
học giả người Ba lan, như St. Schayer (1935-8), Constantin Regamey[31] và Maryla Falk[32] đã nỗ lực thâm nhập ít nhất vào cái mà
họ gọi là ‘Kinh điển tiền Nguyên thuỷ Phật giáo–Pre-canonical Buddhism.’ Quan
điểm của họ hoàn toàn ở mức độ khác với suy luận độc đoán của Jennings (1947),
Guenther (1944) và Bahm (1958), trong đó họ giữ nguyên những dữ kiện thực tế
của truyền thống Phật giáo.
Họ giả định
rằng bất cứ nơi đâu Kinh tạng có những ý tưởng xung đột với giáo lý chính thống
của Thượng toạ bộ và Nhất thiết hữu bộ, và bất cứ nơi đâu những ý tưởng nầy
được dùng và phát triển bởi Đại thừa, thì chúng ta phải liên hệ với một truyền
thống ‘Kinh điển tiền Nguyên thuỷ Phật giáo’ rất cổ xưa, vốn rất được tôn trọng
được loại bỏ bởi các nhà kết tập kinh điển. Cách khác, làm sao mà họ có thể
giải thích về vô số điều liên quan đến ‘Bổ-đặc-già-la (pudgala)’[33] hay là giả định về một ‘thức’ thường
hằng trong saḍdhātusūtra, hay là sự đồng nhất của Tuyệt đối, của niết-bàn với
‘thức không chủ tể, không thấy được, chiếu chắp mọi nơi–viññānam anidassanam
anantam sabbato pabham.’ Trong kinh Trường A-hàm (Dīghanikāya, XI 85)? Bên
cạnh việc thường lập lại phủ định một cái ngã (ātman), có sự truy tìm về một niềm
tin rằng thức (viññānam) như
là tâm điểm chẳng vô thường của nhân cách cấu thành một tố chất tuyệt đối trong
thế giới ngẫu nhiên nầy. Dù niết-bàn thường được ghi nhận một cách trừu tượng
xa xăm và chỉ được định nghĩa bằng phủ định, vẫn có dấu vết còn lại riêng biệt
về một khái niệm tích cực hơn, và với bản thể luận (ontology) phi chính thống,
xem niết-bàn như là một nơi chốn (place; s: pada), hay là một thực thể (và
không chỉ là một trạng thái), đồng nhất với thường hằng (eternal) và thực tại
cứu cánh (absolute reality; s: dharma), và với quang minh (prabhāsvara)[34] của tâm (citta) hay thức (consciousness).
Lúc đó, giải thoát được quan niệm như là thanh tịnh hoá dần dần thức nầy để
cuối cùng đạt đến đỉnh cao của ‘Pháp giới–dharmadhātu,’[35] từ đó, không còn thối chuyển (acyuta)
nữa. Sự thể hiện của Đức Phật cho thấy một mâu thuẫn tương tự. Thông thường thị
hiện như là một con người đã tìm thấy chân lý, có khi ngài được xem như là một
siêu nhân, chất thần thoại trước quan niệm Chân như Phật tánh, sự thể hiện phàm
tình của nguyên lý tuyệt đối (absolute principle; s: dharma). Niềm tin
được khuyến cáo là phải có sự tin tưởng nơi quyền lực tâm linh của Ngài, vốn
được bảo chứng bởi ánh sáng hào quang phát ra từ thân siêu nhiên. Trong khi đó,
các Kinh điển Thượng toạ bộ nói chung hạ thấp vai trò của niềm tin, họ dạy rằng
không có ai có thể cứu được người khác, và mỗi con người hãy tự thẩm định cho
chính mình. Sự gợi ý giáo lý ‘khác thường’ nầy biểu hiện một cơ sở ‘tiền Kinh
điển’ Phật giáo, được đề xuất do những người bạn Ba lan (Regamey) của chúng tôi
chỉ là một giả thuyết thăm dò, và không có gì khác hơn thế nữa.
Hơn nữa, cũng
có thể rằng đó là sự nhượng bộ sau nầy để phổ cập nhu cầu, như là mục tiêu thấp
hơn khi sinh ở cõi trời (svarga) được thừa nhận bên cạnh mục tiêu niết-bàn. Vấn
đề thiết thực là ở điểm nầy: Phải chăng đạo Phật xuất phát từ tinh hoa trí huệ,
từ các bậc đạo sĩ hiền triết, và rồi trở thành một tôn giáo phổ thông ngay vào
thời của vua A-dục?[36] hay là, ngay từ thời kỳ sớm nhất về
trước, có một tôn giáo bình dân dựa trên sự sùng kính đấng Thế tôn (Bhagavan), tôn
kính Đức Phật? Và nếu như vậy, có phải đây là tôn giáo đứng về một bên phần rất
tinh tuý của nó,[37] hay chỉ là sự sự nhượng bộ có tính tuyên
truyền đối với hàng cư sĩ? Như Regamey (1957, p. 43) nêu ra ‘Có phải chắc hẳn
rằng một hệ thống mà khởi nguyên là một tôn giáo đơn thuần, phát triển đúng lúc
một sự tăng tiến dần thành giải thoát luận vi tế, tinh vi và thành triết học
kinh viện, hoặc học lý triết học của một tinh hoa, khi nó lan toả dần, phổ biến
và pha loãng vào thực trạng dễ tiếp cận cho số đông? ’ Dù riêng tôi có khuynh
hướng nhìn đạo Phật từ khởi thuỷ là một phong trào quần chúng bình dân, tôi
cũng phải thừa nhận rằng không có tranh luận dứt khoát có thể thấy đối với khả
năng khác. Điều nầy cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên. Một trăm bốn mươi năm sau khi
Đức Phật nhập niết-bàn, vấn đề rất quen thuộc nầy ngay từ đầu đã được tranh
cãi, không có sự đồng ý nào có thể tiếp cận được, và nó dẫn đến sự chia chẽ
trong cộng đồng. Nay, 2500 năm sau, làm sao chúng ta có thể mong rằng tiếp cận
được với sự chắc chắn nào về vấn đề nầy?
Điều nầy đưa
chúng ta đến với cuộc đời của Đức Phật. Liệu rằng chúng ta có thể, với kiến
thức hiện tại của mình, có thể tách rời truyền thuyết với thực tế?
Năm 1947 Giáo
sư Lamotte trình bày[38] rằng thực tế lịch sử vượt qua sự tiếp
cận của chúng ta, và chúng ta phải hài lòng để nghiên cứu các giai đoạn kế tiếp
của truyền thuyết Đức Phật. Năm 1949 xuất hiện tác phẩm Life of the Buddha[39] của A. Foucher, tác phẩm cuối cùng của
nhà khảo cổ học vĩ đại. Đây thực sự là một kiệt tác, và là một tác phẩm đáng
tin và chân thực nhất mà từ trước đến nay tôi có được. Tác phẩm nầy không những
dựa trên kinh điển của tất cả các trường phái mà còn căn cứ trên vô số tác phẩm
nghệ thuật, ước định niên đại vào khoảng thế kỷ thứ II ttl. về trước, những tác
phẩm mà Giáo sư Foucher đã hơn 50 năm để đạt được một kiến thức không có gì
sánh được. Là một nhà du hành đầy sinh lực, M. Foucher đã trải qua nhiều năm ở
Ấn Độ, đã trở nên quá quen thuộc với hoàn cảnh, tập quán tư tưởng Ấn Độ, và
chính ông đã tạo nên Tám nhà chiêm bái Phật giáo vĩ đại. Sự kiểm tra về tính
cách địa phương của các truyền thuyết đã ném một ánh sáng ngạc nhiên vào nhiều
khía cạnh, vì không phải một vài đề mục trong truyền thống của chúng ta là
chuyện được kể lại cho những nhà chiêm bái thế nên Giáo sư Foucher đã thành
công trong việc tái thiết định một truyền thống Ấn Độ thiết thực về Đức Phật,
và mô tả trạng thái của truyền thuyết như Thiên chúa giáo.
Chúng ta có thể
kết luận về đề tài của mình bằng vài dòng về mối liên hệ của Phật giáo Nguyên
thuỷ với Áo đề giáo lý vô ngã (anattā), điều mà hiển nhiên là
trọng tâm của mọi hiểu biết giáo lý đạo Phật.
Có một khuynh
hướng dai dẳng để gán cho Phật giáo Nguyên thuỷ một giáo lý có tính chất Áo nghĩa
thư (Upaniṣad) về Ngã (Self, ātman). Ít có gì để viện dẫn từ Kinh tạng để hỗ
trợ cho luận đề nầy, nhưng nó đã là tai hoạ của những nghiên cứu Phật học mà
con người sẽ khăng khăng tin rằng đạo Phật ắt hẳn đã hoàn toàn hiểu lầm về Đức
Phật, và thế nên họ ao ước, theo lời của Giáo sư Murti, sau một thời kỳ ‘khẳng
định có linh hồn của Phật giáo Nguyên thuỷ, được tiếp theo bởi Phật giáo học
thuật bác bỏ linh hồn.’ Trích dẫn thêm từ Giáo sư Murti, (p. 177), ‘nếu Ngã (ātman)
là giáo lý cốt yếu của đạo Phật, sao nó phải ẩn dấu quá chắc chắn đến nỗi các
môn đệ chuyển tiếp của bậc Đạo sư cũng không hiểu được gợi ý ? Mặt khác, Áo
nghĩa thư (Upaniṣad) phóng vọt ra thực tế về ngã (ātman) hầu như trong
trong mỗi dòng, trong từng trang sách. Thuật ngữ ngã (ātman) như
vậy đi đến mức độ là một ‘thuật ngữ xấu’ đối với đạo Phật, rằng họ rất cẩn
trọng tránh dùng từ ấy để chỉ niết-bàn, và ngay cả luôn luôn dùng từ “Personalists”
để nói về Bổ-đặc-già-la (pudgala), chứ không bao giờ dùng để nói về ngã (ātman).
Vấn đề trong lúc ấy, có một lần và tất cả được đặt ra bởi bài viết của Giáo sư Von
Glasenapp về ‘Phệ-đàn-đa (Vedānta) và đạo Phật.’[40] Ông ta cho thấy rằng học thuyết có chất
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) được đề cập trong kinh điển đạo Phật rất ít, và thế nên
nó luôn luôn có tính chất luận chiến (polemically), hầu hết những nhầm lẫn đều
do ‘những bản dịch tùy hứng đi ngược toàn bộ truyền thống đạo Phật,’ và ông chỉ
ra rằng những nghiên cứu của trường phái Leningrad đã làm nên từ ‘nỗ lực tìm duyên cớ cho cái ngã (ātman) trong giáo
lý đạo Phật’ ‘hoàn toàn không hợp thời.’ ‘Có thể chắc chắn rằng các tác phẩm
của Rosenberg và Stcherbatsky lần đầu tiên đã đặt tri thức đạo Phật như là một
cán cân quân bình hệ thống triết học trên một nền tảng mới và vững chắc, vốn
lại càng vững chắc vì nó có thể liệt kê những sự tán đồng của mọi tông phái đạo
Phật ở Á Châu.’ Và, ‘Đó chính là ý tưởng nền tảng của toàn thể hệ thống mà các
pháp đều thoát khỏi cái ngã (ātman), và không có lập luận vững chắc nào mà
người ta khỏi phải tuyên bố rằng chính Đức Phật đã dạy giáo lý khác với những
gì các môn đệ của ngài trong hơn hai ngàn năm được xem như là tinh hoa giáo lý
của mình.’ Dĩ nhiên, nó nổi tiếng, rằng học thuyết thường tìm cách nấn ná một
thời gian dài, sau tính chất hợp lệ đã bị dẹp tan. Thế nên nó cũng ở đó. Hễ khi
nào con người khăng khăng đòi viết về giáo lý vô ngã (nairātmya) chính thống mà
không thực hành thiền định vốn được phác hoạ để phơi bày nó, thì những quan
niệm sai lầm buộc phải được hiểu ra.
Đại thừa
Một trăm năm
sau khi Đức Phật niết-bàn, Tăng đoàn Phật giáo phân thành hai khuynh hướng, một
theo chủ nghĩa duy lý và một là huyền bí (mystical). Khuynh hướng ‘huyền bí’ hình
thành Đại chúng bộ (Mahāsanghika), mà ba thế kỷ sau, phát triển thành Đại thừa
(Mahāyāna). Khi dùng từ và ‘huyền bí –mystic,’ dĩ nhiên, chúng tôi phải thận
trọng đặt chúng trong cách hiểu của người Châu Âu. Không có một Phật giáo ‘duy
lý– rationalists’ nào đã từng thù ghét cay đắng đối với tôn giáo trong ý nghĩa
mà Gibbon, Hume, Lady Wootton và The Rationalist Press Association ghét cay
ghét đắng xem như là một thứ mê tín dị đoan thấp kém. Không có một đạo Phật
‘huyền bí –mystic’ nào đã từng quay sang chống lại suy nghĩ duy lý như đối với
sự nhiệt tình của Petrus Damiani, William Blake, hay nhóm ‘theo chính sách ngu
dân–obscurantist’ của Pháp, Tây ban nha hay Giáo hội Thiên chúa giáo Ái nhĩ lan
(Irish Catholic Church).
Sự khác nhau
chính là điều giữa huyền bí có lý trí của Đại thừa, và tính chất huyền bí
thoáng nhẹ trong chủ nghĩa duy lý của Thượng toạ bộ hay Nhất thiết hữu bộ. Họ
có nhiều nền tảng chung trong tầng bậc trung của đạo, nơi mà các đạo sĩ khổ
hạnh nỗ lực cho sự giải thoát trong phong cách hoàn toàn duy lý hoặc như một
doanh nhân. Không có bên nào bác bỏ rằng dưới những điều này có sự so sánh
không hợp lý về tín ngưỡng phổ thông, và trên đó là tính siêu hợp lý của tầng
bậc cao của đạo và bậc tột cùng của tam-muội (samādhi) và bát-nhã
(prajñā). Họ chỉ khác nhau ở sự nhấn mạnh mà họ dành cho những hiện tượng
nầy. Các nhà tiền phong Đại thừa (proto-Mahayanist) và chính các nhà Đại thừa
đã nhìn thấy rất chân thành nhu cầu tôn giáo của quần chúng bình dân, và thêm
vào đó, họ có nhiều điều để phát biểu về các tâng bậc cao hơn của con đường,
đặc biệt là về trí huệ siêu việt, về trực giác, về Tuyệt đối, và về Vô vi (Unconditioned).
Tác giả của một
cuốn sách[41] giá trị và thú vị về bản chất duy lý
trong đạo Phật của Miến Điện nhìn thấy những yếu tố tín ngưỡng một cạc cụ thể
trong một giả định về ‘tư duy bất chấp cứu cánh–thought-defying ultimate’ có
nghĩa là ‘Bất tử–The Immortal’ hay niết-bàn, vốn ‘được biểu thị bằng nghịch lý của
xác định và phủ định, của duy trì niềm tin và tính lưỡgn lự của ngôn ngữ.’ Khi
họ nói quá nhiều tự tại về Tuyệt đối và sự tiếp cận trung gian của nó, chúng ta
không nhất thiết cần phải thừa nhận rằng các nhà Đại thừa là quen thuộc hơn đối
với họ. Rất hợp lý rằng các nhà không phải Đại thừa hoàn toàn hài lòng với sự
trình bày có hệ thống chỉ với những gì được trình bày với điều gì dễ dãi, và bỏ
qua một cách thận trọng phần còn lại để tự nhìn vào chính mình.
Các nhà Đại
thừa, mặt khác, xem đó như là một đề tài đáng giá để chống lại những trình bày
sai lầm bằng lời nói của những lĩnh vực kinh nghiệm tâm linh thanh cao nhất.
Tôi không thể nào không cảm thấy rằng điều nầy liên quan với vài điều đã mất của
sự tinh thông trong Tăng già sau 500 năm đầu đã trôi qua.
Sự thai nghén
chậm chạp của Đại thừa trong Đại chúng bộ vẫn còn được bao phủ trong sự khó
hiểu. Điều chúng ta tin tưởng khi biết rằng giữa khỏang thời gian từ năm 100 ttl.
đến năm 100 stl. đã nổi lên như một trào lưu tư tưởng riêng biệt, vốn nhanh
chóng chuyển sang chống lại mạnh mẽ ‘Thanh văn (thừa) và Bích chi Phật (thừa,
vốn bấy giờ đại biểu cho cái được gọi một cách thô thiển là ‘Tiểu
thừa–Hīnayāna.’ Nơi mà tiến trình nầy xảy ra vẫn là một vấn đề đang bàn cãi.
Quan điểm truyền thống cho rằng Đại thừa xuất phát từ miền Nam Ấn Độ đã bị
thách thức bởi E. Lamotte[42] và A. Bareau[43] muốn quy cho bộ phái nầy xuất phát từ
Tây bắc Ấn Độ hay từ miền Bắc vùng Dekkhan. Quyết định dứt khoát về vấn đề nầy
là, tuy nhiên, vẫn còn quá sớm.
Thực ra, khi
đánh giá tiến trình thực hiện được trong những nghiên cứu Đại thừa, quán sát
đầu tiên mà chúng ta phải làm là sự đối
chiếu với tính chất mênh mông của lĩnh vực hầu như không có chút tiến triển
nào. Nghiên cứu gần đây vào 500 năm đầu lịch sử đạo Phật ít nhất đã dẫn đến một viễn
cảnh mới và tái định hướng. Bức tranh mới bắt đầu tự hình thành chính nó đã là
một phác thảo đáng được thán phục nhất của E. Lamotte trong tác phẩm của ông
nhan đề The History of Indian Buddhism.[44] Về Đại thừa, chúng ta vẫn còn đang ở
giai đoạn đầu tiên của sự khó khăn khi thu thập tư liệu có thể có trong tầm
tay. Bức tranh toàn cảnh của chúng ta vẫn còn thuộc về bản đồ thế kỷ thứ 19 cổ
xưa của xứ Châu Phi, với vài dải màu rải rác đây đó trong các góc cạnh, nhưng phần
mênh mông bên trong vẫn để lại trống không với màu trắng, phủ đầy với sự phỏng
đoán và giả định.
Văn học đồ sộ
Đại thừa rơi vào hai nhóm:
1.
Kinh.
2. Các phẩm triết học kinh viện của các nhà Trung Quán (Mādhyamika) và Du-già
hành tông (Yogācāra). Đối với Kinh, việc phiên dịch của họ từ lâu đã khó khăn
và không chắc chắnvì ngôn ngữ thường khác với văn bản Sanskrit cổ, và không có
sách ngữ pháp hay từ điển thích hợp. Năm 1953 sự thiếu sót nầy được cải thiện
bởi F. Edgerton.[45] Công việc quên mình của ông đã giúp phần
lớn làm dịu những vấn đề căng thẳng của giới nghiên cứu tương lai, và các bản
dịch hầu như trở nên chính xác hơn cái đã có trong quá khứ. Tuy nhiên, Edgerton
như là một nhà ngữ văn, ông thích hợp nhiều hơn với ngôn ngữ hằng ngày hơn là
thuật ngữ chuyên môn, là điều ông không buồn phiền để học hiểu. Trong các
trường Đại học hiện đại của chúng ta, một nhà ngôn ngữ học sẽ đánh mất đặc
quyền của mình nếu ông ta chỉ thực sự nắm bắt về nội dung của văn bản mà ông ta
nghiên cứu. Nhiều từ vựng có tính thuật ngữ của Đại thừa do vậy, vẫn còn chưa
được thăm dò đến, và ngay cả đối với những học giả bị bắt buộc phải đoán chừng
xem do đâu mà họ không biết.
Kinh điển Đại thừa gồm có:
a) Những Kinh cốt lõi (hạt giống) của thời kỳ
đầu.
b) Kinh được mở rộng về sau (s: vaipulya: phương
quảng, phương đẳng).
Tất cả các ‘Kinh cốt lõi’(hạt giống) đều rất
vắn tắt, ít khi tồn tại riêng biệt, mà thường nằm lẫn trong các bản kinh mở
rộng về sau nầy. Nhiều nghiên cứu đối chiếu và nhiều phê phán nhạy bén sẽ được
cần đến trước khi chúng ta học cách khu trú chúng lại. Hiện tại chúng ta có
được không hơn vài gợi ý rải rác qua các tạp chí xuất bản định kỳ đa dạng. Cho
đến khi chúng ta quen thuộc hơn với những Kinh cốt lõi nầy, thực sự chúng ta
không thể nào biết được Đại thừa giống như thế nào ngay lúc khởi đầu của nó, và
vẫn ít biết nó xuất phát như thế nào và phát triển ra sao, và mối quan hệ của
nó với hùnh thái nguyên thuỷ của đạo Phật như thế nào. Một số người khiến tôi
ngạc nhiên bởi vô số ý nghĩ mà họ dốc hết vào vấn đề làm sao mà Đại thừa xuất
phát từ Thượng toạ bộ. Việc làm của họ thật là vô bổ, vì thực tế là Đại thừa
không xuất phát từ Thượng toạ bộ, điều mà, qua ngôn ngữ của Giáo sư Murti (p.
69), ‘Có rất ít hoặc không có ảnh hưởng trực tiếp trong sự phát triển của các
trường phái đạo Phật Ấn Độ.’ Vào giai đoạn sau của triết học kinh viện tinh vi,
một vài trình bày có hệ thống của đức tin Đại thừa phát sinh từ những cuộc luận
nghị giữa các nhà Nhất thiết hữu bộ và Kinh lượng bộ,[46] mà không bào giờ có giữa Thượng toạ bộ.
Hễ mà Đại thừa ‘phát xuất’ từ một cái gì đó, thì đó phải là Đại chúng bộ (Mahāsanghika),
và đó là điều chúng ta phải đối diện với khó khăn mà chỉ có Luật của bộ phái ấy
được giữ gìn, và không có gì đối với Kinh tạng. Nghiên cứu của tôi về hai phẩm
đầu của Bảo đức tạng (Ratnaguṇa),[47] mà tôi xem như là nguồn gốc của Bát-nhã
ba-la-mật-đa, đã dẫn tôi đến kết luận thăm dò rằng ban đầu, Đại thừa đã giới
thiệu không có điều gì mới mẻ cả, nhưng dựa vào một nhấn mạnh mới về một phần
nào đó của những tư liệu đã được truyền thống chấp nhận một cách rộng rãi.
Vẻ huy hoàng
thực sự của Đại thừa, tuy vậy, lại nằm trong Kinh Phương quảng (Expanded Sutra),
và bối cảnh ở đây là, nếu có thể, vẫn còn chưa thoả đáng. Chẳng hạn, Diệu
Pháp Liên Hoa kinh, là một bộ kinh mang tính tín ngưỡng với vẻ huy hoàng
trang nghiêm, và chúng ta vẫn chưa có bản dịch đáng tin cậy. Năm 1884 H. Kern xuất
bản một bản dịch từ tiếng Sanskrit, nó hoàn hảo như thể cách đây chừng 80 năm
trong khi hầu như mọi dữ liệu cần thiết đều là không được biết đến. Tôi không
thiếu lòng kính trọng nhà tiên phong vĩ đại nầy khi tôi nói rằng đến bây giờ,
công trình dịch thuật của ông đã trở nên hoàn toàn không tương xứng, và bị sai
lạc một cách rõ ràng trong nhiều điểm cốt tuỷ của giáo lý. Năm 1930 W. E.
Soothill[48] đã nỗ lực thực hiện một bản dịch rút gọn
từ tiếng Hán, mà không chịu nỗi sự thử thách của thời gian, và chỉ chứng tỏ
được rằng việc truyền bá Phật pháp ở Trung Hoa ít được trang bị cho việc nắm bắt những điều vi
tế của tư tưởng đạo Phật.
Trong thế kỷ nầy, chỉ có hai trong những bộ
kinh đồ sộ được phiên dịch–đó là Bát thiên tụng Bát-nhã dịch sang Anh
ngữ (Perfection of Wisdom in 8,000 Lines)[49] và Kinh Kim Quang Minh dịch sang
tiếng Đức (Splendid like the Finest Gold).[50] Không có bản nào trong số nầy bị tuyên
bố là không đủ tiêu chuẩn thành công. Ngoài những sai lầm thực tế, mà những
người khác có khả năng xảy ra nhiều hơn chính tôi, bản dịch của tôi về Bát
thiên tụng Bát-nhã được bị làm biến dạng bởi vô số lỗi in ấn, và những bỏ
sót thỉnh thoảng vài dòng đã được thêm vào vì sự khó hiểu của độc giả.[51] Với lòng hoài nghi mất hết tinh thần,
tôi nhìn việc làm vụng về chậm chạp của Calcutta Asiatic Society vốn đã cần đến
8 năm để in 225 trang của bộ kinh không mấy phức tạp, tôi bất đắc dĩ phải dứt
khoát không còn tín nhiệm họ nữa với ghi chú, Lời giới thiệu và Chú dẫn, tuy
nhiên, đó là điều cần thiết họ phải làm như vậy. Phần thêm vào lại phải bị hoãn
in ấn một số năm không rõ, và phần nhiều những gì tôi nói hầu như trở nên không thể nhận ra được nữa. Ngược lại,
Giáo sư Nobel được thuận lợi do sự thành thạo xuất sắc của nhà xuất bản Brill, bản
in và trình bày sách của ông tốt đẹp như họ có thể làm được. Ông ta cũng chẳng cần
cáo buộc những gì vội vàng bất cẩn. Từ năm 1927 trở đi, ông đã hiến mình cho sự
tập trung nghiên cứu Kinh Kim quang minh trong hơn 30 năm, là khoảng
thời gian một người Châu Âu cần để thực sự quen thuộc với bất kỳ bản kinh nào
thuộc dạng nầy. Và thế nên kết quả của mọi việc làm nầy là một sự thất vọng
buồn thảm. Bản dịch của Giáo sư Nobel không có nhạc điệu, vẻ tráng lệ, vẻ huy
hoàng thanh cao của kinh nầy, sự hiểu lầm thô thiển về tư tưởng Đại thừa thường
xuyên tạc kinh nầy và một vài cước chú phản bội hầu như gây sửng sốt do sự hiểu
sai hoàn toàn những thuật ngữ chuyên môn thông thường.[52] Bản dịch nầy đối chiếu những điều hầu
như không đáng ca ngợi với ấn bản riêng của Giáo sư Nobel về bản tiếng Sanskrit
và Tây Tạng của Kinh Kim quang minh, vốn là kiểu mẫu của hầu như sự
chính xác không sai sót. Lý do Giáo sư
của chúng ta là một nhà ngữ học tự thú nhận là người đã đặt ngôn ngữ trước ý
nghĩa và không có niềm thích thú sống động vào những gì ông ta phiên dịch. Tư
tưởng đạo Phật chưa bao giờ khuấy động tính hiếu kỳ của ông ta, và lớp mù sươgn
che phủ mà ông ta trùm lên nó cho thấy rằng ông ta thất bại để đánh giá đúng
mức tính chính xác và không mơ hồ của kinh điển ra sao. Những bản kinh nầy là
những tư liệu tinh thần, và chỉ bằng tinh thần mới có thể thăm dò chúng được.
Một sự chú ý kém hiểu biết đối với nghĩa mặt chữ sẽ dễ dàng chuyển những ghi
chép vi tế nhất về giáo pháp trí huệ sang một chuỗi vô lý ngớ ngẩn không có sức
sống. Điều ấy quả thật khó hiểu làm thế nào một bản dịch thỏa đáng của kinh
điển Đại thừa có thể mong đợi từ người nào chỉ với tâm thành kính và niềm tin
vào Phật giáo Đại thừa.
Đối với phần
còn lại, có ít điều để tường trình. Vào năm 1952 J. Ensinck cho chúng ta một
bản dịch chu đáo về một bản kinh ngắn, nhan đề Hộ quốc tôn giả sở vấn kinh
.[53] Vài năm sau tôi cố gắng, khắc phục mọi
sự bất toàn lớn, ấn hành một bản dịch và chủ giải mới về Kinh Kim Cang (1957–8).
Nhưng đó là tất cả. Thuộc về Đại bản Bát-nhã (Large Prajñāpāramitā),[54] then chốt của toàn thể Đại thừa, thậm
chí chưa có một ấn bản tiếng Sanskrit hoàn chỉnh, dù tôi có thể đưa ra một bản
dịch tiếng Anh thăm dò vào năm 1961. Bản dịch của W. Baruch về kinh Diệu Pháp
Liên Hoa (Saddharmapuṇdarīika) vốn sẵn sàng để in năm 1937, nhưng do vì
sự không quan tâm nói chung nên dường như nó biến mất cùng với cái chết của ông
sau đó vài năm.
Năm 1953 R. Robinson gởi cho tôi một bản dịch Kinh
Duy-ma-cật (The Exposition of Vimalakīrti)[55] của ngài Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva) từ tiếng
Hán, nhưng nó chỉ là bản đánh máy và không có việc gì để làm với bản kinh nầy
từ thời đó. Không có nguồn quỹ tài trợ cho loại công việc nầy. Như là kết quả
từ tính lãnh đạm của công chúng, không chỉ từ chối tiếp cận các tác phẩm kinh
viện mà là hết sức sai lạc bởi những cuốn sách không đạt tiêu chuẩn vẫn tiếp
tục lưu hành trong khi những gì tốt hơn đang thiếu vắng. Mỗi lần tôi nhìn vào
bản dịch Śikshāsamuccaya (1922), một sưu tập độc đáo trích từ kinh điển
Đại thừa, tôi sửng sốt bởi hầu như những bất cẩn không thể nào tin được, đặc
biệt là phần sau thiếu sự giám sát của C. Bendall. Về số lượng, có lẽ 5% kinh
điển Đại thừa được biên tập đáng là tin cậy, và có lẽ 2% được phiên dịch dễ
hiểu. Rõ ràng kết luận đó được rút ra từ nguồn tư liệu hiếm hoi tuỳ ý sử dụng
của chúng tôi nên phải còn những điểm rất đáng ngờ như vậy.
Sự thờ ơ của Đại thừa là một điểm lạ lùng khác
vào thời điểm khi những tác phẩm không rõ ràng của các trường phái khác đã khơi
gợi dòng chảy từ các học giả khắp nơi trên thế giới. Sự hoàn toàn thiếu vắng
những khích lệ những nghiên cứu này dường như để chỉ ra rằng họ không có mối
liên hệ nào với nhu cầu của một bộ phận quần chúng có ý nghĩa nào trong xã hội đương
thời. Hậu quả là việc nghiên cứu kinh điển Đại thừa hoặc là bị rơi lại ngoài
chỗ tạm hiểm nghèo bên lề xã hội, hoặc là được tiến hành vì lí do có ít điều để
làm với thông điệp thực sự của họ–như mối quan tâm đến vấn đề ngôn ngữ học, hay
ước muốn đẩy mạnh lòng tự trọng quốc gia của người Ấn Độ. Ác cảm thầm kín thế
hệ hiện thời đối với sự hưng khởi Đại thừa vốn đã thâm căn cố đế mới đây bởi sự
cố tình huỷ diệt thành trì Tây Tạng, sẽ xứng đáng có nhiều giải thích phong
phú. Nhưng đây không phải là nơi để làm việc đó.
2. Chúng ta
quay sang văn học triết học kinh viện (scholastic literature). Trước
hết, đối với Trung quán luận (Mādhyamika), bản dịch của E.
Lamotte về Đại Trí độ luận[56] của ngài Long Thụ về Đại phẩm Bát-nhã
(Large Prajñāpāramitā) là một bước nhảy khổng lồ về phía trước. Cuốn thứ nhất
đề cập đến ý niệm Đại thừa của chư Phật và hàng Bồ-tát, và cuốn thứ hai đưa ra
mô tả rất chi tiết về Lục độ (six perfections). Cuốn thứ ba sẽ giữ lại những
điểm chính tư liệu A-tỳ-đạt-ma, và đối với niền vui lớn của tôi khi gần đây
được nghe Giáo sư Lamotte nói rằng ông ta hầu như đã hoàn thành bản dịch và tác
phẩm ấy sẽ ra đời trong một tương lai gần. Vẫn không chắc chắn dù tác giả của
bộ luận nầy là ngài Long Thụ, người trứ tác Trung quán luận tụng (Verses on
the Mādhyamika Doctrine), nhưng không ai nghi ngờ rằng Trí độ luận đã
khoáng trương một cách có thẩm quyền về lập trường của phái Trung quán. Sự dồi dào thông tin hầu như
không thể nào tin được đã trải rộng trước chúng ta qua tác phẩm thực sự mang
tính bách khoa nầy vốn được soạn vào thời kỳ
sức sống mãnh liệt của đạo Phật lên đến đỉnh cao. Điều đáng buồn cần phản ảnh là các quốc gia Anglo-Saxon
rất giàu mạnh đã không có bất kỳ một bước tiến nào để làm cho kiệt tác nầy được
tiếp cận đối với cộng đồng những người nói tiếng Anh.
Tác phẩm luận
giải tiêu biểu về Trung quán luận tụng của ngài Long Thụ đó là Minh
cú luận (Prasannapadā)[57] nổi tiếng của ngài Nguyệt Xứng.[58] Dù tác phẩm ấy được gọi là Minh cú (Clear-Worded),
nó đã thách thức giới học giả Châu Âu hơn nửa thế kỷ sau khi bản dịch của De la
Vallée Poussin từ tiếng Sanskrit ra đời, và các học giả đã hài lòng chỉ biết
gặm nhắm bản dịch từng chương một. [59] Trong thời đại chúng ta, J. W. de Jong
đã dịch chương 18-22 sang tiếng Pháp khá trong sáng,[60] và bản dịch tiếng Pháp xuất sắc của Jacques
May của 12 chương còn lại ra đời vào năm 1959. Nhưng thật là một phương thức lộn
xộn khi xử lý một tác phẩm kinh điển như vậy! Điều chúng ta thực sự cần là một
bản dịch toàn tác phẩm đồng nhất sang tiếng Anh, và hầu như không có người nào
có ý sẵn sàng hoặc có khả năng thực hiện việc nầy.
Về cơ bản, một
luận giải về quan niệm của Nguyệt Xứng cũng chính là tác phẩm The Central
Philosophy of Buddhism (1955) của T. R. V Murti, [61] kết hợp nỗ lực tri thức được duy trì
liên tục và tính minh mẫn cùng với tri thức uyên thâm tinh tế và cảm xúc mạnh
mẽ về siêu hình học. Tác phẩm phải được đọc và thưởng thức một cách thích đáng,
và tôi không nói nhiều về tác phẩm đó nữa. Nhưng nhan đề của nó là một thách
thức đối với Phật giáo Tây phương, vốn lâu nay thể hiện ít tín hiệu chú ý, với
kết quả là khía cạnh bất toàn đã làm hỏng cả phần học lý lẫn phần thực tiễn của
họ. Truyền thống trung tâm chính là Tánh không (śūnyatā), đại biểu là các Luận
sư thuộc Nhất thiết hữu bộ, Trung quán luận (Madhyamikas) và các Lạt-ma Tây
Tạng. Ngược lại, Thượng toạ bộ và Thiền (Zen), với chừng mực sở đắc riêng của
họ, đều là ở phần bên ngoài. Như tôi đã phát biểu năm 1957: ‘Cả trong Thiên
chúa giáo và trong Phật giáo chúng ta đều có thể phân biệt được giữa truyền
thống trung tâm và các hệ phái. Cơ-đốc giáo phát xuất từ miền Đông
Địa trung hải, và chính nó là truyền thống trung tâm được phát huy. Trong những
quận hẻo lánh xa xôi của Châu Âu, có nghĩa là ở xứ Wales, Scotland và Sweden, ở
ranh giới miền hải đảo, hoặc ở Wittenberg và Bohemia, ở mỗi miền biên giới của
nền văn minh Địa trung hải, niềm tin Thiên chúa giáo lúc đó trở nên hoàn toàn
mới và có vỏ bên ngoài không ngờ được. Khi truyền thống sinh động không có đủ
sức mạnh để thâm nhập đến những vùng quá xa xôi nầy, nó được thay thế bởi những
ý tưởng kỳ khôi vốn được tuyên bố là trở lại trực tiếp với ‘phúc âm nguyên
thuỷ–original gospel,’ và cái biểu tượng méo mó đó lưu giữ lại một truyền thống
mạnh mẽ như là giáo lý ‘thuần khiết.’
Tình trạng
tương tự của sự việc có thể được thấy rõ trong đạo Phật, vốn xuất phát từ miền
Bắc Ấn Độ. Chính ở một vùng lân cận mà truyền thống đó được định hình, và chính
gần nơi đây, ở Tây Tạng, truyền thống ấy đã được duy trì tốt nhất. Nhưng trong
tiến trình lan truyền đạo Phật từ vùng trung tâm (madhyadeśa, e: middle
region) (xem Bát thiên tụng Bát-nhã, xvii, 336) đến vùng biên địa (pratyantajanapada;
e: border regions), nơi đó, ở vùng biên giới hải đảo, Tích Lan và Nhật Bản,
tinh thần của đạo Phật trở nên không còn giống như tình trạng của Tin lành (Protestants)
trong những vùng ngoại vi Châu Âu. Thực vậy, Thượng toạ bộ của Tích Lan và
Thiền Nhật Bản cả hai đều khước từ truyền thống sinh động của đạo Phật, Thiền
Nhật Bản nhân danh ‘giáo ngoại biệt truyền,’[62] Thượng toạ bộ Tích Lan nhân danh chỉ
riêng kinh tạng Pāli là có đặc quyền lưu giữ nguồn gốc ‘Lời dạy của Đức Phật.’[63] Hoặc, như Christmas Humphreys đã phát
biểu rất cô đọng: ‘Phật giáo phương Tây hiện nay đang ở trong tình cảnh hiếu
kỳ. Những người thuộc Thượng toạ bộ thì hoàn toàn thỏa mãn, và có sự gia tăng
nhanh chóng những nhóm người chỉ quan tâm đến Thiền (Zen). Đây là dôi cánh của
con chim, nhưng đâu là thân?’[64] ‘Dù tôi muốn thêm ‘đôi cánh gắn thêm’
đúng hơn chỉ là ‘đôi cánh’ có lẽ gần với sự kiện hơn.’
Sáng tác nhiều
đó là dòng văn học phát sinh từ Trung quán tông, ngay cả sau thời Lamotte và
Murti, một lượng lớn các tác phẩm vừa vặn để được tiếp cận. Nhiều giáo lý tu
tập vẫn còn bị chôn kín trong những bản tiếng Hán chưa phiên dịch về những bộ
luận giải đồ sộ của ngài Long Thụ. Thánh Thiên,[65] người đương thời vĩ đại của ngài Long
Thụ, từ lâu hầu như không được để ý đến. Chúng ta vẫn chưa có ý niệm rõ ràng về
hệ thống Trung quán-Y tự khởi của ngài Thanh Biện,[66] vốn chỉ được nghiên cứu trong các bản
dịch tiếng Tây Tạng, và trong đó dường như đã tán thành luận đề hầu như không
thể tin được rằng trong Trung quán tông, luận lý đúng đắn khẳng định lập trường
có thể thực hiện được. Tương tự như vậy, chúng ta tiếp tục gặp giáo lý và các
hệ phái của Du-già-Trung quán, đã tìm ra được tổng đề tối hậu của Đại thừa ở Ấn
Độ.
Bản dịch của
tôi về tác phẩm của Bồ-tát Di-lặc[67] nhan đề Abhisamayālaṅkāra,[68] kệ tụng tóm tắt Đại phẩm Bát-nhã, có ý nghĩa như là một đóng góp cho
tri thức về Bát-nhã, và làm được ít điều để sáng tỏ quan điểm mang tính giáo lý của trường phái hơi khó nắm
bắt nầy. Sau cùng, nghệ thuật rất quan trọng của Thiền quán về tánh không (Meditating
on Emptiness) dường như đã mất hầu hết. Đó là một thiếu sót nghiêm trọng trong
tác phẩm của Giáo sư Murti khi ông có quan niệm về Trung quán tông như thể nó
là kết quả của lập luận triết học, trong khi thực tế nó xuất phát từ kinh
nghiệm thiền quán. Sức thuyết phục mạnh mẽ về mặt tâm linh của giáo lý Trung
quán có thể tự khẳng định chính nó chỉ khi nào nó được tái tích hợp với pháp tu
tập thiền quán. Tánh không (śūnyatā) chủ yếu là đối tượng của nhất tâm thiền
quán, không một lời nói lải nhải nào có thể đem đến kết quả gì khi cho nó là hiện hữu hay
không hiện hữu, và như vậy, đều chẳng có ích gì.
Hầu như những
gì bị lãng quên về Du-già hành tông (Yogācāra) vào hai mươi năm gần đây có thể
được giải thích bởi vô số những nghiên cứu trước những thập niên 1940 đang làm
thoả mãn lòng ham hiểu biết của chúng ta. Quan niệm về Du-già hành tông, trong
mọi trường hợp, chưa bao giờ khuấy động Đông phương đến mức giáo lý tánh không
(śūnyatā) phải xoay chuyển họ. Thiền quán về Tánh không khiến cho tâm được
thanh thản, trong khi đó chỉ suy đoán về ‘tàng thức’, lại cung ứng cho tâm thêm
nhiều những điều khó hiểu. Giáo sư E. Frauwailner nước Áo (Vienna) có tham dự
phần nào trong trường phái nầy và đã cho ra đời vài bài viết về lĩnh vực chuyên
môn đó mà không đề cập đến giới độc giả phổ thông. Tuy nhiên, mọi người nghiên
cứu Phật học đều biết người Đức đã rút ra được nhiều lợi lạc từ bộ sưu tập
triết học của ông những đoạn văn thích đáng trong tạng Kinh và Luận.[69] Trong đó Du-già hành tông được mô tả như
là ‘Tông phái quan trọng nhất của Đại thừa.’(pp. 264), nhưng Giáo sư Frauwailner
là một học giả quá hoàn thiện cho phép khuynh hướng nầy bóp méo viễn cảnh của
ông. Các bản dịch hầu như lúc nào cũng chính xác của ông cho phép người đọc có
được một ý tưởng dễ chịu trước hết về ‘giáo pháp của Đức Phật’ rồi đến ‘các
trường phái Tiểu thừa’ (pp. 61-142), và sau cùng là Trung quán tông (pp.
143—254) và Du-già hành tông (pp. 264-407). Giới chuyên gia sẽ không hài lòng
vài bản dịch và chú giải của ông nhưng thời bấy giờ, không một ai có thể làm
tốt hơn những gì ông đã làm.
Tantra[70] và Thiền
Tantra luôn luôn là đứa con rơi của ngành
nghiên cứu Phật học. Vào năm 1940, tác phẩm cổ điển của W. Y. Evans Wentz giới
thiệu bản dịch của Kazi Dawa-Samdup[71] hầu như là nguồn tư liệu duy nhất về
những thông tin dể hiểu mà người đọc tiếng Anh có thể tiếp cận được. Thêm vào
đó, còn có những bản dịch có phần chưa thoả đáng, từ Tây Tạng, chỉ một chương
của cuốn Tantra,[72] khảo sát có tính giáo trình The
Indian Buddhist Iconography [73] của B. Bhattacharya chủ yếu thiên về Sādhanamālā,
và căn cứ theo sự thực của L. A. Waddell (1895), nhưng sự mô tả với lòng ghét
bỏ và khinh thường đức tin và lễ nghi của người Tây Tạng.
Trong hai mươi
năm gần đây, tình hình có phần nào được cải thiện. Sự kiện nổi bật là việc phiên
dịch và ấn hành tác phẩm Hevajra Tantra[74] của D. L. Snellgrove vào năm 1950, là
tác phẩm Tantra đầy đủ đầu tiên được giới học giả thành thạo xem là có
tính khoa học. Dù có ca ngợi tác phẩm về Tantra nầy, nó trở nên một tác
phẩm văn học xuất sắc được biên soạn bởi nhiều thành viên thuộc tầng lớp bình
dân chỉ biết tiếng Sanskrit một cách chưa hoàn chỉnh. Cấu trúc của nó rõ ràng
là lộn xộn, và mỗi đề tài hầu như bị bỏ rơi ngay khi nó được nêu ra. Nhịp điệu
ban sơ và sinh khí uyên nguyên, đương nhiên bị đánh mất trong bản dịch tiếng
Anh, vẫn thường khuấy động người đọc ngày nay, nhưng nội dung ít soi sáng được
họ. Thực tế, Tantra nầy nỗ lực kết hợp triết học Trung quán cao siêu với
huyền thuật và lễ nghi cuồng loạn đương thời ở các làng quê Ấn Độ có đời sống ở
mức Thời đá cũ[75] . Điều ấy chắc là đáng được thực hiện vào
thời đó, nhưng kết quả chắc là không có một thông điệp trung gian cho con người
sống vào môi trường cực kỳ nhân tạo của chính chúng ta và xã hội đô thị hoá. Do
vậy, người đọc nên được cảnh báo trước về loại sách này, dù tư liệu thuộc về
một biến cố lịch sử trọng đại, chứa đựng ít nhiều điều hiện thời có thể bị đồng
hoá bởi Phật giáo Tây phương.
Có rất nhiều
thành phần quan trọng hơn của truyền thống Tây Tạng cũng đã trở nên nổi bật
trong những năm gần đây. Tông Ninh-mã (rNying-ma) qua tác phẩm The Tibetan
Book of the Great Liberation (1954) của Evans-Wentz trong tông Ca-nhĩ-cư
(bKa‘-rgyud) qua bản dịch đáng khen của H. V. Guenther từ tác phẩm The Jewel
Ornament of Liberation (1950) của Sgam-po-pa, và tông Cách-lỗ (dGe-lugs)
bởi tư liệu mà Alex Wayman đã cung cấp về tác phẩm Bồ đề đạo thứ đệ (Stages
of the Path of Enhightenment)[76] của Tông-khách-ba. Chúng ta cũng không
quên nhắc tới bản dịch của G. N. Roerich từ tác phẩm The Blue Annals
(1949, 1953) của Gshon-nu-dpal vốn đã soi chiếu nhiều ánh sáng cho sự phát
triển tư tưởng Tây Tạng từ năm 1478.
Thêm vào đó,
còn có bốn tác phẩm đáng tin cậy và có thẩm quyền về Mật tông Phật giáo (Tantric
Buddhism), tác phẩm của H. von Glasenapp vào năm 1940,[77] tác phẩm của G. Tucci vào năm 1949,[78] tác phẩm của S. B. Dasgupta năm 1950, [79] và tác phẩm của D. L. Snellgrove năm
1957.[80] Các vị ấy đều nhất trí trong trình bày Tantra
như là một hệ thống hoàn toàn dễ hiểu về một tôn giáo có giá trị to lớn, vốn
sinh khởi hoàn toàn hợp lý từ những dòng có trước giáo pháp định hình của đạo
Phật.
Tuy nhiên, bằng
chính những sản phẩm mang tính học thuật nầy phải chịu tương đối hiếm muộn, vì
kiến thức tiếng Sanskrit và tiếng Tây Tạng chưa đủ cung cấp dòng tư tưởng cho hệ
thống Tantric về bản chất là tâm lý học ngay trong mục tiêu và ý định của nó.
Vì đó chính là sự tham gia đặc biệt của Tantra vào trong sự tác động trở
lại của các pháp thực hành Phật giáo trên vô thức (unconscious mind) mà chúng
tác động đến và trên dòng lực huyền bí mà chúng kích hoạt. Trong tiến trình lâu
dài, dĩ nhiên, tinh thần khoẻ mạnh của chúng ta sẽ có lợi lạc to lớn từ các phương
pháp đạo Phật về sinh hoạt và thiền quán. Trong tầm ngắn, sự ngược lại sẽ
thường xảy ra. Dấu ấn của một phương thức không tự nhiên của sinh hoạt có lẽ sẽ
đem đến những khuynh hướng sẵn sàng tác động âm ỉ đến thần kinh. Tiến trình tâm
linh đòi hỏi thời kỳ dài độc cư. Xã hội cách ly gây ra lo âu, vốn là nỗi sợ hãi
không có điều gì trong sự riêng biệt của tất cả nhiều khuynh hướng, cảnh đau
lòng thắt ruột vì bất lực không tìm ra được điều gì hữu hình để mà sợ hãi. Sự
thường xuyên kềm hãm áp đặt trên khuynh hướng tự ngã của mình và lòng tham muốn
phải gây ra một ý thức về sự thất vọng đi theo với toàn bộ sự nhiễu loạn tinh
thần, đặc biệt là vì kết quả của cái giận không nên bị ‘hàng phục’ trong sự
cuồng tín tôn giáo và sự nhiệt tâm khủng bố của những người khác, cũng chẳng
phải là kết quả trấn áp đến vô tri vô giác bằng ma tuý hay rượu. Hơn nữa, tự
kiềm chế phải có cùng với nó một xung đột dữ dội giữa ý thức và vô thức, vì ý
thức cố gắng đè nén một thúc dục bản năng khiến nó càng mạnh mẽ thêm trong vô
thức. Cuối cùng, một số dòng lực không bị nghi ngờ, cả huyền bí lẫn tâm linh
được đánh thức, chầm chậm hoặc đột nhiên. Không có sự trợ giúp của một hướng
dẫn thông thạo chính thức, chúng ta có thể thường xuyên bị quên mất cách thức
thế nào để vận dụng chúng. Những rối loạn tinh thần nầy được nổi tiếng với pháp
trầm tư vào thời trung cổ với tên gọi accidia, mà Bach Ẩn (Hakuin)[81] gọi chúng là ‘thiền bệnh–Zen sickness,’
mà ngài đã mô tả trong tác phẩm Yasen Kanna.[82] Tính tự mãn của người không bao giờ áp
dụng sự thúc bách chính mình là điều đáng giật mình, và tự hài lòng một cách bí
mật, bởi những rối loạn tinh thần, tâm linh và thể chất của những người thực sự
muốn làm một điều gì đó. Những phiền nhiễu nầy giống như ‘Bóng đêm của tinh
thần–Dark Night of the Spirit,’ không phải là dấu hiệu của sự thất bại, khi thế
gian phàm trần chưa được huấn luyện thì có khuynh hướng giả định, nhưng dấu
hiệu của sự trưởng thành–tiếng kẽo kẹt của bệnh thấp khớp ở các khớp xương cuối
cùng đã báo trước tính hay thay đổi. Tuy nhiên, một lượng lớn khổ đau và hao
phí thời gian sẽ tránh được nếu chúng ta biết cách xua tan những mất trật tự
này. Trong thời hoàng kim của giáo pháp, chúng ta vượt qua những phiền toái nầy
một cách dễ dàng, và dù sao chăng nữa, chúng ta cũng tiếp xử với chúng. Một trăm năm
sau khi Đức Phật nhập niết-bàn, khi điều kiện xã hội trở nên gia tăng quy hướng
tâm linh, họ bắt đầu tạo nên một vấn đề mới, và Tantra được rút ra để đương
đầu với điều ấy bằng những phương pháp đặc biệt cho phép người hành trì lấy lại
được sự sáng suốt và an tĩnh từ ban sơ.
Đây không phải là
nơi để trưng bày sự phong phú về kiến thức tâm lý học ẩn dấu đằng sau ngôn ngữ
bí ẩn của các kinh văn thuộc Tantra. Chỉ cần đưa ra hai ví dụ cực kỳ cơ
bản là đủ để cho thấy sự hiện hữu của chúng. Thứ nhất, mặc cảm Oedipus (Oedipus
Complex),[83] một nguồn lực của ý thức thường xuyên về
tội lỗi, lâu nay thường bị gạt bỏ bởi khám phá của Freud, được mô tả rõ ràng
như một kinh nghiệm tiền ý thức qua tác phẩm Tibetan Book of the Dead
(p. 179), mà ở đây chỉ tái hiện lại truyền thống cổ xưa từ A-tỳ-đạt-ma
Câu-xá luận (Abhidharmakośa).[84] Thứ hai, người mới nhập môn muốn hướng
năng lực của mình vào dòng (đạo) có kết quả thực sự, trước tiên phải hoàn toàn
xác định cho được pháp môn mà mình đang theo đuổi.[85] Chỉ lúc đó, anh ta mới quyết định được
pháp môn nào trong vô số phương pháp tu tập giải thoát mà mình theo đuổi. Trong
mối quan hệ nầy, anh ta nên lưu ý những điểm như sự tương ưng giữa Bát-nhã
ba-la-mật-đa với Đức Phật Bất động[86] và sân (hate-family); và tương ưng với
Đức Phật A-di-đà, giáo chủ cõi Cực lạc được mô tả trong kinh Sukhāvativyūha[87] với tham (greed-family).
Điều tôi muốn
nói là, để phơi bày cho mọi người chúng ta trong thế kỷ thứ XX nầy ý nghĩa sinh
động của tantra. Một học giả không những phải biết tiếng Sanskrit và
tiếng Tây Tạng, mà còn phải quen thuộc với tâm lý học hiện đại và một hay nhiều
nghệ thuật huyền bí khác.
G. Tucci đã có vài nhận định hữu ích về sự
liên hệ của tantra với tâm lý học về Vô thức (Unconscious)[88] và đó chính là công của H. V. Guenther
đã lĩnh hội được vấn đề, dù tính bướng bỉnh từ lâu đã ngăn cản ông nói nhiều về
giá trị lâu dài.[89] Tương tự như vậy, dù nhiều độc giả không
tin điều ấy, hiển nhiên không có người nào có thể công bằng đối với phương diện
huyền bí của tantra mà không biết ít nhất một trong các nghệ thuật huyền
bí, như chiêm tinh,[90] và không có vài kinh nghiệm thực tế về
sự vận hành của những lực huyền bí bên trong và chung quanh chúng ta. Nếu một
cuộc hôn phối như vậy giữa học thuật ngôn ngữ với nguyên bản tâm lý học và tri
thức huyền bí chưa từng diễn ra, thì và chỉ khi đó tantra mới trở thành
một thành phần sống động của Phật giáo phương Tây. Bây giờ nó chỉ giống như đối
tượng của một kẻ nhàn rỗi và lúc nào cũng hiếu kỳ gây trở ngại, hay là một lối
thoát cho những sự quan tâm dễ hài lòng bởi sự nghiên cứu kỹ về Decamerone của Boccaccio
hay về Lady Chatterley’s Lover.
Thiền phát sinh
đồng thời với tantra. Chúng ta càng nghiên cứu về cả hai, chúng ta càng
thấy chúng có nhiều điểm chung đến dường nào. Vì Thiền và tantra là hai sáng
tạo tiêu biểu của dòng Phật giáo thứ ba, vốn bắt đầu vào khoảng năm 500 stl.,
cả hai đều đáp ứng một vấn đề tương tự với cùng phương pháp giống nhau.[91] Trong những thập niên 30, D. T. Suzuki[92] đã đặt Thiền (Ch’an) đúng hơn là Zen,
lên bản đồ, và từ lâu, ông ta là nguồn duy nhất cho chúng tôi ở phương Tây tin
rằng bây giờ chính mình biết được về Thiền. Trong những năm gần đây, những hồi
đáp quen thuộc đã diễn ra.
Sự lan toả của
trình độ đọc viết đã phủ khắp thế giới với tri thức tối thiểu, họ nhìn mọi dạng
thức nổi bật như là một lời chỉ trích cá nhân, và địa vị cao trọng được thừa
nhận là hoàn toàn không thể chịu đựng được. Một vài phát biểu chống lại Suzuki
đã tìm cách để in ra. Tuy nhiên, trong nhiều năm, họ quả quyết với nhau bằng
lời xì xào riêng rằng Suzuki hoàn toàn thất bại khi trình bày Zen như là người
Trung Hoa và Nhật Bản thực sự hiểu nó như vậy. Một bài viết của Hồ Thích (Hu-shih)
chỉ lưu hành trong Trung Hoa, nói rằng trong một thời gian dài, ông ta đã đập
vỡ kỳ vọng của Suzuki một lần và tất cả. Về sau bài phê phán của Hồ Thích xuất
hiện bằng tiếng Anh,[93] và hoá ra Suzuki có bài trả lời hoàn
chỉnh.[94] Thế nên sự hài hoà bây giờ đã thay đổi,
dù giai điệu vẫn còn như nhau. Hồ Thích là một sử gia muốn biết chính xác những
gì đã xảy ra, như thế nào, và trong đó điều gì tiếp diễn. Đối với Suzuki, thì
ngược lại, ‘Thiền vượt trên mối liên hệ không-thời gian, và tất nhiên vượt trên
cả các sự kiện lịch sử.’ Arthur Waley nỗ lực làm trung gian hoà giải bằng cách
nhại lại bài kệ của Han Shan:[95]
Nước và băng là một, chẳng ngăn ngại
nhau;
Lịch sử và tôn giáo–cả hai đều tốt.
Ở đây không có
thời gian để nêu ra lí do tại sao chú ý quá mức đến dữ kiện lịch sử Phật giáo,
sẽ phải có hại đến sự nháy bén tâm linh của giáo pháp. Tôi phải hài lòng với
điều kiện mình đang có để phân biệt giữa ba loại sử gia–thuộc về khoa học,
thuộc chủ nghĩa nhân văn, và loại không dựa trên thực nghiệm. Loại sử gia thứ
nhất nghiên cứu một con bướm sau khi giết chết nó và ghim nó bằng kẹp trên
khung kính, nơi nó nằm hoàn toàn yên tĩnh và ông ta có thể thong thả xem xét kỹ
từ nhiều góc cạnh. Dạng sử gia thứ hai để cho con bướm bay trong mặt trời, và
nhìn một cách diệu kỳ vẻ đẹp của nó. Dạng sử gia thứ ba cam đoan với chúng ta
rằng con người sẽ biết con bướm là gì chỉ khi nào mình là một với con bướm. Là
một nhà tư tưởng sáng tạo, Suzuki nói rằng sử gia mô tả, dù thuộc về khoa học
hay thuộc về thuộc chủ nghĩa nhân văn, Thiền phải được bao hàm trong đó, và không phải như là một sự kiện
lịch sử bên ngoài, chỉ có người thực sự
trở thành Thiền mới hiểu được nó. Dù yêu cầu của ông có lẽ là khó đối với một
sử gia trung bình, nhưng tôi thấy không có lí do gì để không đồng ý với ông.
Ngoài sự nổi
bật quá cao của Suzuki, ảnh hưởng của ông trên giới trí thức phương Tây đã gây
ra những phản ứng không thuận lợi. Không nghi ngờ gì, Suzuki đã nuôi dưỡng một
hình thái tâm linh cho phương Tây trong
một môi trường chủ yếu là ngoài-Tin lành (ex-Protestant), giới đã đánh mất mọi
tiếp xúc với truyền thống tâm linh, chắc chắn bị hút về phía tự khẳng định hư
vô chủ nghĩa. Bị kích động bởi thông điệp của Suzuki, một nền văn học đồ sộ về
‘Zen’ nổi lên ở Anh, Pháp, Ý, Đức và Hoa Kỳ. Xếp hạng từ Thiền cực kỳ nghiêm cẩn
và vô cùng kỷ luật ‘gọn gàng, ngăn nắp’ cho đến vui nhộn hoang dại của Kerouac và
phong trào Beatniks của ông ta.[96] Tất cả những điều đó đều từ trong những
tác phẩm về Thiền xuất phát từ Suzuki, và ông ta phải chịu trách nhiệm về những
hiểu lầm có trong các tác phẩm ấy.[97] Nếu Suzuki chịu trách nhiệm về sai lầm
nào đó, thì điều ấy chưa đủ để biết về sự khô cằn của sa mạc trong việc ông cấy
ghép cây azalea[98] đáng yêu của ông.
Thiền được phác hoạ để vận hành trong tánh
không (śūnyatā). Khi Thiền đến Tây phương, nó bị chuyển thành chân không (vacuum).
Chúng ta hãy nhớ lại điều mà Thiền cứ nhận là như vậy, như là điều đã có trước,
một nền tảng cơ bản và liên tục: một truyền thống tâm linh lâu đời bất hoại ‘know-how–biết
tại sao,’ niềm tin siêu hình học kiên định và không có gì nghi ngờ, và
không chỉ là không tin ở một điều gì; sự dồi dào kinh điển và hình tượng; một
giới luật rõ ràng được giám sát bởi nhiều người có trách nhiệm; sự khẳng định
vào nghề nghiệp chân chính (chánh mạng; right livelihood) và đời sống giản dị,
mộc mạc cho mọi tiêu biểu của giáo pháp và một Tăng đoàn vững mạnh, được cấu
thành bởi hằng ngàn người thuần thục và kinh nghiệm ở trong hàng ngàn ngôi
chùa, những người có thể giữ cho những nguyên lý đạo Phật không bị lạc vào
đường tẻ trong giới hạn nhỏ hẹp. Như tôi đã trình bày nơi khác, Thiền tông ‘lập
một tình huống trong đó nhiệt tâm của niềm tin có vô số phương tiện cứu độ,
trong sắc thái của Kinh, luận giải, sự tinh tế của triết lý, hình tượng và nghi
lễ, mục tiêu tự nó có khuynh hướng đánh mất cái nhìn, và đời sống tâm linh đang
bị nguy cơ chán nản bởi nhiều thứ được phác hoạ để thúc đẩy chúng. Trong sự
phản ứng của nó chống lại cơ cấu phức tạp đang mọc um tùm của lòng mộ đạo, họ
chủ trương một lối tiếp cận giải thoát cực kỳ đơn giản. Họ không bao giờ mệt
mỏi khi tuyên cáo sự lạm dụng các cơ cấu phức tạp nầy, vốn nó sẽ dễ dàng đi đến
chỗ chấm dứt chính nó.’[99] Đó là sai lầm căn bản của nhiều người
Châu Âu nhầm lẫn những tuyên bố nầy cho một truyền thống tâm linh. Suzuki không
có khả năng thấy trước điều ấy. Tương tự như vậy, khi ông lên án tri thức như
là sự kềm chế tính bẩm sinh, Suzuki đã có giả định rằng, một khi tri thức bị
loại trừ, thì Đạo sẽ hiển hiện. Ông ta đã quá quen thuộc với triết học phi lý phương
Tây, nơi mà sự khiển trừ tri thức chẳng làm được điều gì hơn là khẳng định sự
tự do của tính bướng bỉnh bản năng. Khi nói đến tính chất tự phát, Suzuki có ý
đề cập đến tính thanh thoát của bậc Thánh, không phải là dành cho đám học sinh.
Sau cùng, chỉ
trình bày một sắc thái Thiền, đó là tông Lâm Tế (Rinzai)[100] Nhật Bản. Những nghiên cứu về Thiền sau
thời Suzuki phải nỗ lực lấp đầy kiến thức chúng ta về những tông phái khác,
bằng cách ấy hy vọng đạt được tầm nhìn đầy đủ hơn và một viễn cảnh chính xác
hơn:
1.
H. Dumoulin, một giáo sĩ dòng Tên (Jésuit) thuộc trường Đại học Catholic Sophia
University ở Tokyo, Nhật Bản, đã đặt Thiền trong bối cảnh lịch sử và tư tưởng
Trung Hoa. Thế nên việc Suzuki dốc lòng giải thích thông điệp tâm linh của các
Thiền sư, đó là điều rất khó từ trong tác phẩm của ông để hình thành ý tưởng
địa phương hoá nó vào thời gian không gian, hoặc là thuộc về giáo lý của các hệ
phái. Trong một bài viết đáng khâm phục, về sau được biên tập một cách thán
phục của Ruth Fuller Sasaki.[101] Dumoulin miêu tả sự phát triển của Thiền
trong đời Đường và Tống, có nghĩa là trong thời gian Thiền đạt đến tính sáng
tạo đỉnh cao của nó, sản sinh một số lớn các nhân cách mạnh mẽ, và đạt được sự
biểu hiện đầy tính chất sáng tạo đáng ngạc nhiên. Vào năm 1959 Dumoulin ấn hành
ở Đức một khảo sát tổng quan về lịch sử Thiền tông[102] mà năm 1963 được dịch sang tiếng Anh.
Cuốn sách chỉ nam nầy là một tác phẩm chu đáo nhất và tương đối không thiên vị,
nó đưa ra mọi dữ kiện thích đáng hiện giờ đang được biết đến. Người ta có thể
than phiền rằng nó bị hạn chế trong những dữ kiện lịch sử bên ngoài, nhưng chắc
chắn nó xứng đáng để biết đến, miễn là không qua nghiêm túc. Không có điều gì
ngăn cản độc giả của ông làm thấm đẫm các sự kiện bằng những kinh nghiệm tôn
giáo riêng của chính họ, nếu họ có được điều gì.
2.
Thiền Lâm Tế[103] đã trở nên quá gần gũi, liên quan chặt
chẽ với ‘đặc tính quốc gia Nhật Bản,’ hay đúng hơn là tinh thần Võ sĩ đạo (Samurai),
không chắc được thành công giống như Thiền tông Trung Hoa (Ch’an), một sáng tạo
về bản chất là thiên tài Trung Hoa thích an bình. Zen, trên thực tế, không phải
là Ch’an, mà là một đáp ứng cho người Nhật Bản lưu tâm đến Thiền (Ch’an), đúng
như chính tự thân Ch’an là sự đáp ứng của tâm hồn Trung Hoa đối với đạo Phật Ấn
Độ. Việc nghiên cứu tư tưởng Thiền (Ch’an) trong những năm gần đây đã được đẩy
mạnh do Phùng Hữu Lan,[104] nhờ ông mà chúng ta có được sự trình bày
thông thái về quan niệm triết học từ các Thiền sư đời Đường[105] đến dòng văn học Thiền tông (Ch’an) về
sau từ thế kỷ thứ XVII đến thế kỷ thứ XX,[106] trở nên được quan tâm một cách đáng ngạc
nhiên, sôi nổi và nâng cao. Tuy nhiên, nó phải được vạch ra rằng, nói chung,
những bản dịch nầy, đặc biệt là dòng văn học trước đó, để lại nhiều ao ước được
duyệt xem lại đúng với tiến trình. Nó không đúng do hai nguyên nhân:
a)
Khác với sự khước từ kinh điển, các Thiền sư hoàn toàn thấm nhuần kinh luận, và
nhiều Ngữ lục của các vị ấy được trích dẫn trực tiếp từ trong tạng Kinh, hay chứa
đựng những ám chỉ từ kinh. Một dịch giả không biết đến tạng Kinh, hay cho rằng
điều ấy là không có liên quan, thì sẽ có rất nhiều sai lầm. Chẳng hạn, các ngài
sẽ làm gì với lời đối đáp của Ni Tổng Trì (Tsung-chih) cho câu hỏi của Bồ-đề
Đạt-ma về sở đắc của cô nếu không biết
rằng điều ấy liên quan đến phẩm 28 trong Kinh Bát thiên tụng Bát-nhã.[107]
b)
Cũng như Tantra, Thiền (Ch’an) là một phong trào rộng lớn của tâng lớp
thấp trong xã hội. Theo đó, công án (koan) và các ngữ lục khác của Thiền
sư được diễn đạt qua lối nói thông tục của người Trung Hoa, vốn khác với tiếng
Quan thoại (Mandarins). Không thể nào biết chắc ý nghĩa thuật ngữ được dùng khi
tra cứu trong từ điển tiếng Hán cổ, và Giáo sư Demiéville hiện nay đang bận rộn
khi xác định ý nghĩa chính xác của chúng bằng cách nghiên cứu các tư liệu tiếng
Hán từ Đôn Hoàng (Tun-huang).[108]
3. Giáo sư P.
Demjévjlle[109] và G. Tucci[110] đã phát hiện sự hiện hữu của vô số hậu
duệ của Thiền tông (Ch’an) ở Tây Tạng vào thế kỷ thứ VIII, và các chất liệu Tây
Tạng một ngày nào đó sẽ được phối hợp với Trung Hoa.
4. Ngay cả
chính trong Nhật Bản, tông Lâm Tế với 6000 ngôi chùa, là số ít so với tông Tào
Động[111] với 15.000 ngôi chùa.[112] Tông Tào Động liên quan đến giới bình
dân, giới Võ sĩ (Samurai), luôn luôn giữ khoảng cách đối với giới chính khách, nuôi
dưỡng ‘tinh thần tao nhã,’[113] ít trông chờ ở kỹ thuật công án, và hoàn
toàn không loại bỏ luôn luận lý và tri thức, nhưng sẵn sàng với sự lành mạnh về
tinh thần và để có ý nghĩa. Khi tông nầy trở nên được biết đến nhiều hơn ở phương
Tây, nó sẽ chứng tỏ sự tương đắc và thu hút hơn so với tông Lâm Tế đối với vài
khí chất.
Tuy nhiên, cho đến
nay, nền văn học thích nghi trong Thiền Tào động[114] dường như hơi mờ nhạt và khó nắm bắt.
Điều đó có lẽ vì tông nầy lâu nay không có khả năng huy động viên các tài năng
văn học lớn, và các tác phẩm của họ thường được trứ tác một cách rất bình
thường do những người không am tường Anh ngữ. Hoặc có lẽ các Thiền sư tông Tào động
thực sự rất nghiêm túc về tính không lý thuyết và không có tư tưởng của họ, và tự
hạn cuộc mình vào trong toạ thiền (Zazen), một công việc ít có giá trị tiêu khiển
đối với người bàng quan. Tương lai sẽ cho chúng ta thấy rõ.
Đến đây xin kết
luận ba mục mà tôi đã mô tả bằng tất cả kiến thức của mình những diễn tiến có
được trong nghiên cứu đạo Phật suốt hai mươi năm gần đây. Tập trung vào phần
thực chất và vào những ấn bản đáng tin cậy của giới học thuật. Tôi đã cố gắng
biểu lộ đến mức kiến thức chúng ta về lịch sử đạo Phật được cải cách từ sau
chiến tranh thứ hai. Qua sự cống hiến của các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới
mà bây giờ chúng ta có được sự truy cập đến một diện rất rộng từ những nguồn vi
diệu đã được trao truyền. Chính là đến đây chúng ta mơi thấy được rằng cơn mưa phát
xuất từ rất nhiều đám mây pháp thực sự
nuôi dưỡng năng lực tâm linh chúng ta, và nó không chỉ mưa xuống để rửa trôi
những hiếu kỳ tri thức.
ĐẠO PHẬT CỨU ĐỘ
☸
I
Trong
mối quan tâm về sự chính xác về thuật ngữ học, tiếng Sanskrit tương đương với “save–cứu
độ” và “saviour–người cứu thoát, vị cứu tinh.” Trường hợp nầy trước tiên
cần phải được tìm hiểu chắc thật.
Khi
dòng Baptists of Serampore dịch Tân Ước (New Testament) năm 1808, họ đã dùng từ
trāṇa để dịch từ salvation (sự giải thoát, sự cứu độ) và trātur
để dịch từ saviour (người cứu thoát, vị cứu tinh), từ căn √trai,
có nghĩa là bảo hộ, che chở (to protect). Thế nên trên đồng tiền xứ Bactrian,
họ đã dịch từ sōtēr là trātur. Từ điển A Dictionary of English
and Sanskrit (1851) của Monier Williams đã nêu ra thêm nhiều từ tương đương
phát sinh do các từ căn rahsh, pal, gut, với nghĩa guard (canh
gác), defend (bảo vệ), protect (che chở), tṛī, với nghĩa carry
across (đưa qua) ((nis) tāraka, etc.), uddhṛi, với nghĩa to extricate (giải thoát), và muc,
với nghĩa to liberate (phóng
thích) như trong ((pari)mokṣaka–biệt giải thoát, tăng thượng giải thoát).
Thêm vào đó, chúng ta có thể lưu ý từ nātha, có nghĩa là người bảo hộ (helper),
người che chở (protector); và śaraṇa, có nghĩa là quy y (refuge).
Tuy nhiên, thực ra, thuật ngữ Phật học không có từ tương đương chính xác đối
với khái niệm ‘đấng cứu rỗi– saviour’ như trong Thiên chúa giáo. H. A. Jaeschke
trong cuốn tự điển của mình, Tibetan-English Dictionary, nói rằng ở Tây
Tạng, các giáo sĩ Tin lành đã dùng từ skyabs-mgon (śaraṇa + nātha)
với nghĩa “Đấng cứu rỗi-saviour; Đấng cứu chuộc–Redeemer, Chúa
cứu thế–Christ”, trong khi đó, Thiên chúa giáo dường như thích dùng từ blu-pa-po,
có gốc từ blu-ba, với nghĩa to redeem (chuộc lại) [a pawn
(vật cầm cố), pledge (vật thế chấp), security (vật đảm bảo)].
Những từ nầy chưa từng bao giờ được dùng trong đạo Phật, như từ điển của Das và
Lokesh Chandra đã biên soạn rất rõ ràng.
Trước tiên, sẽ
rất hay khi trình bày niềm tin đạo Phật về ‘người cứu độ’ trong từ ngữ thực tế
của chính văn bản. Trong nhiều cách, nó tương tự với quan niệm của Thiên chúa
giáo cho rằng người truyền giáo thường xem họ như một bản sao Phúc âm, được tạo
ra có chủ ý vì cái Ác để đánh lừa đức tin. Cùng lúc, khi những từ chính xác của
từ nguyên được dịch trung thành sang tiếng Anh, tất nhiên nó trở thành không có
một tương đương đặc biệt nào cho những thuật ngữ then chốt, những sắc thái tinh
tế của nghĩa và hương vị cảm xúc cùng những ngụ ý khác nhau từ đầu đến cuối,
nhiều phần của giáo lý nầy dường như xa lạ với người Thiên chúa giáo và thực
tế, tính hợp lý ẩn sau nó rất khác biệt với tất cả mọi phỏng đoán cơ bản của Cơ-đốc
giáo. Từ rất sớm, chúng ta phải cẩn trọng để tránh những thuật ngữ rất giàu ý
nghĩa như sự tôn kính (worship), cầu nguyện (prayer), tội lỗi (sin), tình yêu (love),
vĩnh hằng (eternal), hay siêu nhiên (supernatural), và thay vì dùng nhiều thuật
ngữ trung tính như tôn kính (revere–quan tâm bằng sự rất kính
trọng) như nguyện (vow), ác (evil), thành tâm (devotion), bất tử (deathless) và
phi thường (supernormal), và chúng ta còn phải ngờ vực các diễn tả về giáo lý
đạo Phật mà, không có nhiều định tính, được gán là ban cho ‘ân huệ,’ ‘nhân từ’
hoặc ‘tha thứ.’
1.
Phẩm
Phổ môn thứ 24 nổi tiếng
trong kinh Pháp Hoa[115] có đầy đủ mọi thành phần chủ yếu trong
đề tài của chúng ta. Trong đó chúng ta đọc thấy rằng ‘Tất cả chúng sinh đang
trải qua nạn khổ, khi nghe danh hiệu Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại sĩ liền cứu độ họ
thoát khỏi (parimucyeran) nạn đó.’ Điều mà họ phải làm là học, nhớ kỹ (chấp–grahaṇa)
danh hiệu ngài và ‘ghi nhớ trong tâm’ (trì–dhārayati), cầu khẩn,
xin ngài (ākrandaṃ kuryuḥ), tôn kính ngài (pay homage), nghĩ tưởng
(recollect; s: smarato) đến ngài, và sùng kính (revere; s: pūjayati) ngài.
‘Nghĩ tưởng đến ngài (smarathā), nhớ nghĩ đến ngài!’ Quán Thế Âm là bậc thánh
thanh tịnh. Trong cảnh khổ não tai hoạ. Ngài là đấng cứu độ, là nơi quy hướng,
và nương tựa (trāṇu bhoti śaranaṃ parāyanaṃ)’[116]
‘Công đức’ phát
sinh từ chấp trì trong tâm danh hiệu của ngài, hay thậm chí một lần cung kinh
đảnh lễ ngài, là ‘vô lựong’ và còn mãi qua nhiều kiếp. Quán Thế Âm Bồ-tát có
được ‘công đức bất khả tư nghì’ vì trong nhiều kiếp ngài đã ‘thanh tịnh bản
nguyện (praṇidhāna) của ngài–’. Sức mạnh (đại lực–prabhāva) được
tặng cho ngài, và nhiều điều được tạo nên bằng năng lực vi diệu, năng lực siêu
linh, năng lực thần thông của ngài (maha-raddika, vikurvaṇa-prātihārya, māyopama-samadhi).
‘Ngài đã đạt được năng lực thần thông (ṛddhībala) viên mãn/ Ngài đã tu tập
nhiều (vipula) trí và phương tiện.’ ‘Ngài bố thí sự không sợ hãi cho các
chúng sinh,’ ngài là bậc cứu độ (trātaru) của chúng sinh và ‘phá trừ mọi
sầu não, sợ hãi và khổ đau.’
Tuy nhiên,
không phải có duy nhất một Quán Thế Âm, và ngài làm điều không khác hơn các
Bồ-tát phải làm. Trong Kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng hạn, chúng ta đọc được:
Khát khao sự
thịnh vượng của thế gian cùng với chư thiên, loài người và a-tu-la, khát khao
làm cho chúng được lợi lạc, làm cho chúng được an vui, làm cho chúng được bảo
hộ, hàng Bồ-tát, khi thấy chúng sinh khổ đau vì phiền não trong vòng luân hồi,
các ngài phát khởi tâm niệm (cittotpāda): ‘Phải độ thoát chúng (tīrṇa),
chúng ta phải giúp độ thoát (tārayema) những chúng sinh chưa được độ
nầy! Đã được giải thoát, chúng ta phải nên cứu độ những chúng sinh chưa được
giải thoát! Đã được an vui, chúng ta phải nên đem an vui đến cho những chúng
sinh chưa được an vui! Đã đạt niết-bàn, chúng ta nên đưa đến niết-bàn những
chúng sinh chưa được đến đó! ’[117]
Nhiều vị Bồ-tát
rõ ràng đã phát nguyện như vậy, khi thành tựu giác ngộ viên mãn, ‘chúng con
nguyện sẽ trở thành nơi trú ẩn, (trāṇam) cho thế gian, nơi nương tựa,
nơi nghỉ ngơi (layanam), nơi quy hướng sau cùng (parāyaṇaṃ), là hải đảo,
là ánh sáng và người dẫn đạo của thế gian!’[118]
2. Từ thời kỳ
nguyên thuỷ trở đi, đạo Phật đã mô tả sự giải thoát như là một tiến trình cứu
độ.[119] Thời gian sau, Tārā,[120] một vị thần đưa người sang bờ bên kia (tārayati),
trở thành ‘sự cứu độ’ tuyệt hảo. Ở một vai trò trong sự phát huy của ngài, nữ
thần nầy quan hệ rất mật thiết với Bồ-tát Quán Thế Âm,[121] và quan niệm tương tự về ngài như một
dạng nữ tính mà ở Trung Hoa thời đó liên hệ đến Bồ-tát Quán Thế Âm. Nữ thần Tārā tương truyền sinh ra từ nước mắt của Bồ-tát Quán Thế Âm khi ngài
trông thấy niềm bất hạnh ở thế gian, hoặc là ngài sinh ra từ ánh sáng xanh phát
ra từ mắt của Bồ-tát, hay như một sự lựa chọn, ngài ‘sinh ra từ vô số sợi tơ
nhỏ của cánh hoa sen của các Đấng cứu độ trong tam giới,[122] có nghĩa là của Bồ-tát Quán Thế Âm. Hay,
lại nữa, Tārā là ‘mẹ của thế giới, sinh ra từ nguyện
lực và trí lực của Đức Phật A-di-đà, có đủ năng lực đại bi, được sinh ra vì sự
cứu độ thế gian.’[123] Và như vậy, với ý nguyện giải thoát cho
mọi chúng sinh khỏi luân hồi sinh tử, nữ thần Tārā có thể tuyên
bố:
Chính là vì bảo
hộ thế gian mà Ta được sinh ra bởi Ngũ trí Như Lai (Jinas). Những nơi chốn kinh
hoàng, lởm chởm đao kiếm, và nơi đầy hiểm nạn. Chỉ khi danh hiệu ta được nhắc
đến 108 lần, thì ta luôn luôn che chở cho mọi chúng sinh, ta liền đưa họ sang
bờ bên kia (tārayishyāmi) sóng dữ với nhiều nỗi sợ hãi. Do vậy, bậc Đại
thấu thị (Seers) tán thán ta trong thế gian với tên Tārā.
‘Điều cần thiết
là ‘lập lại nhiều lần danh hiệu ngài’ và Tārā sẽ ‘đáp ứng
mọi hy vọng.’ ‘Một trăm lẽ tám danh hiệu được công bố vì phúc lạc của người;/
Đó là điều huyền bí, vi diệu, bí ẩn khó đạt được dù ngay cả chư Thiên;/ Nó mang
niềm vui và vận may đến, phá trừ mọi điều ác, / Chữa lành mọi bệnh khổ và đem
sự dễ chịu đến cho mọi chúng sinh.’
Rồi theo bảng
danh mục những lợi lạc xuất phát từ việc đọc tụng, bao hàm mọi điều mà con
người ở thế gian hoặc xuất thế gian có thể ham muốn, từ giàu sang, sức khỏe,
thông minh và thành công trong kiện tụng cho đến đạo đức tinh thần và thăng
tiến giác ngộ. ‘Bất kỳ ai quán tưởng đến Nữ Thần Phước Lạc trong hang sâu núi
vắng, họ đều thấy được khuôn mặt của ngài đối diện với họ. Và chính Nữ Thần Phước
Lạc ban cho người ấy mọi sinh khí và tất cả những thứ khác. Không nói điều gì
hơn, ngài đặt ra Phật quả, rất khó để thành tựu trong lòng bàn tay của ngài.[124] Ngài ‘chỉ riêng một mình’ chuyển hoá một
cách hiệu quả ác độc bằng thực tế danh hiệu ngài một khi được nghe đến hay trì
niệm (smṛtyā),[125] để cho ân huệ của ngài thấm tràn khắp mọi
loài không phân biệt.[126]
3. Trong đạo
Phật, huyền thoại về Quán Thế Âm và Tārā được nêu lên cùng
với một Đức Phật giác ngộ viên mãn–Đức Phật A-di-đà. Bản văn còn có nhiều thông
tin về những lời ‘nguyện’[127] từ kiếp trước của Đức Phật A-di-đà. Từ
nhiều kiếp lâu xa, khi còn là tỷ-khưu Pháp Tạng, ngài đã phát 48 lời nguyện
trước Đức Phật Thế tự tại vương (Lokesvararaja).
Nguyện thứ 18 được cho là quan trọng nhất, và cốt lõi của lời nguyện ấy là, ‘Nguyện
rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật, có chúng
sanh trong mười phương một lòng tin tưởng tôi, hằng ngày niệm được mười lần tên
hiệu tôi để cầu vãng sanh Cực lạc mà đến khi lâm chung chẳng được như nguyện.’[128] Một khi được sinh về trong quốc độ Phật
nầy, họ sẽ được tu tập để thành chánh giác, ‘vì tất cả chúng sinh đều không bị
thối chuyển với quả vị chánh đẳng chánh giác nếu như họ đã được nghe danh hiệu
Đức Phật A-di-đà, và khi nghe danh hiệu, dù chỉ một niệm phát khởi tín tâm
thanh tịnh đến Ngài.’ Như là một kết quả của lời nguyện nầy, người nào nương
tựa vào lời ‘nguyện’ và ‘phát thệ trang nghiêm’ của Đức Phật A-di-đà đều sẽ
được sanh về ‘Cõi Cực Lạc’ nơi đó họ sẽ được ngài giáo hoá nhiều hơn nữa. Tín
tâm của họ biểu hiện bằng niệm danh hiệu Phật (Nam mô A-di-đà Phật!) Nembutsu; niệm Phật trong tiếng Nhật.
Thân Loan (Shinran) đã hệ thống giáo lý nầy với hình thức hơi có chút cực
đoan:’[129]
4. Quán Thế Âm,
Tārā và Đức Phật A-di-đà là ba vị Cứu độ thuộc về một bộ (s: kula; family).
Các ngài gắn bó với thế giới Tịnh độ (Sukhavati), cõi Cực lạc hay là Phật độ (Buddha-field),
ở phương Tây. Cõi Cực lạc phương Tây tạo nên một ảnh hưởng mạnh mẽ khác thường
trong sức tưởng tượng của người Phật tử, để tương ưng với một thiên hướng từ lâu xa không giải thích được về
tưởng tượng mang tính huyền thoại cổ xưa, trong đó nhiều nền văn hoá đã tôn trí
‘Hải đảo Phúc lạc–Islands of the Blessed’ vào phương Tây.[130] Nhưng có rất nhiều và nhiều hơn. Kinh
tạng nói đến có hàng ngàn chư Phật và Bồ-tát, và hàng chục vị Phật đã trở thành đối tượng sùng kính của nhiều
vùng Á châu. Dù họ có thể phân biệt từng chi tiết nhỏ từ A-di-đà Phật bộ, nó
vẫn rất đa dạng trong cùng chủ đề mà đề cương đã nêu ra, và không có gì đặc
biệt để mô tả thêm nữa.
II
Đó là điều chung
nhất về những ‘đấng cứu độ’ nầy, tuy nhiên, phải chăng các ngài không được biết
đến đối với đạo Phật nguyên thuỷ và đến Phật giáo Tiểu thừa vẫn không để ý đến,
ngoại trừ riêng ngài Di-lặc (Maitreya), Đức Phật tương lai. Thực ra, tín ngưỡng
A-di-đà và những tín ngưỡng tương tự cũng có thể được xem như là một tôn giáo
mới, hình thành 500 năm sau sự viên tịch của người sáng lập, và nhờ rất nhiều ở
mối liên hệ với thế giới ngoài Ấn Độ. Theo một số nguồn tư liệu, nó hoàn toàn
tách rời ngoài giáo lý nguyên thuỷ, chuyển nó thành đối cực với chính nó. Những
người tán thành đạo Phật nguyên thuỷ thường tuyên bố rằng, ‘Đức Phật lịch sử’
không phải là một đấng ‘cứu độ,’ có nghĩa là, khác biệt với Cơ-đốc giáo, đạo
Phật biết rằng không có đấng cứu độ ở bên ngoài, và mọi người phải tự cứu chính
mình và không ai có thể cứu độ người khác. Với quan điểm có phần cực đoan của
Thân Loan (Shinran), chúng ta có thể phản bác lại quan niệm cực đoan tương tự
của Thượng toạ bộ chính thống tại Tích Lan ngày nay. Chỉ trích dẫn một tiêu
biểu là đủ, Ven. Walpola Rahula,[131] theo
lời của Giáo sư Demieville, là người đại diện cho một ‘diện mạo của đạo
Phật’–‘nhân bản, lý trí, mang tính Socrate trong vài lĩnh vực, có tính Phúc âm
(Evangelic) trong vài lĩnh vực khác, hoặc hầu như có tính khoa học.’– vốn ‘vì
sự hỗ trợ của nó cho một số lớn kinh luận có thẩm quyền.’ (xem phần dưới đoạn
IV, tr.44). Bây giờ chúng ta nghe Ven. Walpola Rāhula nói về tỷ-khưu
(bhikkhu):
Một con người
có năng lực giải thoát chính mình ra khỏi mọi ràng buộc thông qua nỗ lực và tri
thức của chính họ... Nếu Đức Phật được gọi là một ‘đấng cứu độ, đó chỉ là trong
ý nghĩa ngài đã khám phá và chỉ ra con đường dẫn đến Giải thoát, Niết-bàn. Nhưng
chính chúng ta phải bước đi trên con đường đó... Theo Đức Phật, sự giải thoát
của con người tuỳ thuộc vào sự trực nhận sự thực của chính họ, chứ không nhờ
vào sự ban phát ân huệ từ một đấng thần linh hay nguồn lực bên ngoài như một
phần thưởng cho sự vâng lời và hạnh kiểm tốt của người ấy... Hầu như mọi tôn
giáo đều xây dựng trên đức tin–đúng hơn là dường như phải ‘mê’ tín ("blind"
faith). Nhưng tầm quan trọng trong đạo Phật được đặt trên ‘cái thấy–seeing’,
biết và hiểu, không phải là trên sự tin tưởng hay đức tin.’[132]
Dù chúng ta
phải, dĩ nhiên, ghi nhớ trong tâm rằng quan điểm cực đoan của Thân Loan và
Rāhula là hiếm có và không điển hình. Chẳng những không chia xẻ niềm tin cậy
của riêng Thân Loan vào nguyện lực của Đức Phật A-di-đà, số đông những người
Đại thừa còn tán thành vô số pháp thực hành bổ sung như để hỗ trợ cho sự giải
thoát.[133] Chẳng những không chia xẻ chủ nghĩa duy
lý quá mức của Rāhula, thậm chí các nhà Đại thừa còn dùng mọi thời gian và đến
mức độ khác nhau đã tạo nên những dự trữ cho những hành vi chân chính được gọi
là ‘tín ngưỡng.’
Rāhula đảm bảo với chúng ta rằng ‘trong những vị sáng
lập tôn giáo, chỉ có Đức Phật là bậc Đạo sư tuyên bố ngài không gì khác hơn là
con người, thuần túy và đơn giản.’ Đúng thực là để đạt được giải thoát. Đức
Phật chỉ dùng một nguồn duy nhất là hướng đến tất cả nhân loại và không vượt
qua khả năng tự nhiên của con người như vậy, và năng lực của ngài là phi thường
chỉ vì nó đặt trên sự phát triển cao độ đạo đức đã được thanh tịnh hoá và tập
trung tinh thần.[134] Nhưng dù Đức Phật là con người, ngài
chắc chắn là một con người phi thường nhất. Cũng như Jesus và Mohammed, Đức Phật có năng lực siêu nhiên và có thể làm ra phép lạ;
thân ngài có 32 tướng tốt, và phần lớn những phần đó không cháy khi làm lễ trà-tỳ;[135] và dù trên bản chất là bậc Đạo sư, người
khích lệ và giáo hoá, nhưng ngài chẳng có gì hơn là một người thầy thông
thường, vì sự toàn trí thông suốt mọi sự, không sai lầm, và hoàn toàn tự tại.
Ít nhất đó là truyền thống của mọi tông phái. Thêm vào đó ngài thường được gọi
là Thế tôn (loka-jyeṣṭha) và Như Lai (Tathāgata), cả hai danh
hiệu nầy có những biểu ý thiêng liêng riêng biệt.[136] Đệ tử của ngài không chỉ học hỏi giáo lý
của ngài, mà còn chiêm ngưỡng oai nghi của ngài, họ khát ngưỡng mỗi cái nhìn của
ngài và mong được che chở từ việc ‘ấn tâm–brought to mind’ của chư Phật
và Thế tôn. Họ thường kính trọng xá-lợi,[137] bảo tháp, chi-đề[138] và cây Bồ-đề,[139] vốn là vật những biểu tượng hữu hình cho
sự hiện hữu của ngài trên thế gian. Dù vậy, dĩ nhiên, sự thành kính của người
Phật tử không phải là cầu xin quá nhiều đến Thần linh (God), mà thành kính có
nghĩa là bằng hành động với lòng dũng cảm và tự tin của chính mình. Chủ nghĩa duy
lý chính thống của Phật giáo Tích Lan có cái nhìn về đạo Phật bị cắt xén
và bần cùng hoá như tính chất duy tín
ngưỡng (fideism) của Thân Loan. Và không ngẫu nhiên mà cả hai (Thân Loan và
Phật giáo Tích Lan) đều được đặt vào vùng địa lý ngoại vi của thế giới Phật
giáo.
III
Ngay cả việc
làm căn bản ‘quy y’ Phật, Pháp, Tăng, vốn là chung nhất đối với mọi người tin
theo giáo pháp, nó còn liên quan đến một số niềm tin chắc thật, và có thể gọi
là bộc lộ sự thành kính về phía những ai có khuynh hướng như vậy.[140] Tuy nhiên, về cơ bản, hàm ý tin vào Đức
Phật như là một ‘Đấng cứu độ’ trong ý nghĩa giới hạn nghiêm ngặt rằng ngài đã
khám phá ra giáo pháp (dharma) mà, nếu áp dụng đúng mức chắc chắn sẽ dẫn đến
giải thoát. Hàm ý trong điều nầy hơn nưa là khi chúng ta nói về Quán Thế Âm,
v.v... như là ‘Đấng cứu độ.’ Các ngài ảnh hưởng đến sự giải thoát chúng sinh
bằng hơn cả sự phát biểu về giáo lý siêu việt.[141] Nhưng tất cả là nói về ngài cung kính
trong mỗi phương thức khuôn phép của giáo lý nguyên thuỷ mà từ đó, sự phát
triển về sau không tách rời triệt để và từ đó, chúng không được lưu xuất mà
không có gián đoạn. Dù những công hạnh của các Bồ-tát nầy dường như rất là vi
diệu và phi thường, nhưng các ngài thi tác một cách nghiêm cẩn trong luật tắc
của nghiệp (karma), và năng lực để làm điều thiện là dựa trên vô lượng công đức
(merit; s: puṇya) to lớn mà các ngài tích tập được, trong mức độ sâu dày của
‘thiện căn–kuśalamāla’ mà các ngài phải ‘chín muồi/thuần thục.’ Công đức
(merit; s: puṇya) là phẩm tính của một hành vi dẫn đến hạnh phúc trong tương
lai, hoặc là ở thế gian hoặc xuất thế gian. Miễn là chúng ta ở trong môi trường
đạo đức nghiêm chỉnh, có vài điều tương đương và cân xứng giữa đức hạnh
và quả báo, giữa tội ác và hình phạt. Như chúng ta được nghe trong Kinh Trung
A-hàm, 135[142] về ảnh hưởng nghiệp báo trong 7 việc
thiện và cách thức của 7 hành vi bất
thiện. Những hành vi bất thiện dẫn đến sẽ tái sinh ở địa ngục, việc thiện sẽ
được tái sinh ở cõi trời. Nhưng trong trường hợp người phạm tội tái sinh ở cõi
người, thì hình phạt ăn khớp với tội ác. Kẻ giết người sẽ phải bị đoản mạng,
người đố kỵ sẽ chịu làm người thấp kém, người keo kiệt sẽ chịu nghèo hèn...Tương
tự như vậy, những người tránh nghiệp sát hại sẽ được sống lâu, v.v...Từ những
nguồn khác, chúng ta học được rằng một người phàm ăn sẽ trở thành heo, người
tham lam sẽ trở thành cọp, v.v... Nhưng sự tương đương nầy không còn giữ được
tốt khi chúng ta chuyển sang lĩnh vực tâm linh. Một hành vi được gọi là ‘tâm
linh’ khi:
1. Hướng thẳng
đến mục đích siêu việt; hoặc 2. Hoàn toàn không vụ lợi. Trong khi đó phần
thưởng cho hành vi đạo đức là giới hạn, phần thưởng cho hành vi tâm linh là
không giới hạn, và ‘không có gì so sánh được’ đối với công đức của hành vi đạo
đức. Điều nầy có hai hệ quả:
a. Hành
vi đơn giản từ đức tin, khi hướng đến Đức Phật hay tuyên dương Phật pháp, thì
phát sinh một công đức lớn không thể nghĩ bàn vốn có thể nặng hơn vô số thiếu
vắng về đạo đức. Một bài kệ vốn rất lâu đời, vì được dùng chung trong nhiều
trường phái,[143] cho chúng ta biết rằng Đức Phật là bất
khả tư nghì, giáo pháp của Phật là bất khả tư nghì, và theo đó, niềm tin vào
tính Bất khả tư nghì cũng khiến phát sinh quả báo bất khả tư nghì. Luận giải
giải thích ‘Bất khả tư nghì–acintiya’ là ‘điều không thể tin được đối
với người không có đức tin,’[144] và những ám chỉ trong kinh muốn nói là
kết quả to lớn của ‘một niệm tín tâm.’[145] Kết quả của niềm tin và thành kính khát
ngưỡng siêu việt sẽ thanh tịnh hoá người có tín tâm đến một mức độ hoàn toàn khác
thường, và qua niềm tin, họ vượt lên phía trước rất nhanh, trong khi đó đạo
đức, thiền định và tri thức chỉ có thể đưa họ đến một bước chân tương đối của
loài ốc sên.
b.
Một vị Bồ-tát đạt đến địa thứ 7,[146] cảnh giới mà bấy giờ được gọi là Bồ-tát Viễn
hành địa, ngài hoàn toàn không vụ lợi trong những việc ngài làm, và hành xử chỉ riêng vì quan tâm đến
mọi người. Ngài đã chuyển hoá mọi vấn đề riêng tư của mình, ngài không nhập
niết-bàn, mà ở địa thứ 7, thứ 8, thứ 9 trong công hạnh của ngài, ngài chọn cách
ở lại thế gian. Thực tế là ngài có thể nhập niết-bàn để thể hiện rằng ngài có
đủ công đức cho chính mình, và mọi công đức tạo thêm qua thiện nghiệp của ngài
không có tác dụng nghiệp quả trên ngài nữa và không làm lợi lạc riêng cho ngài.
Thế nên ngài ban tặng hết cho người khác thông qua điều được gọi là ‘hồi hướng
công đức–dedication of merit,’[147] rút ra được điều mà người Thiên chúa
giáo gọi là thesaurus ecclesiae, hay là thesaurus meritorum Christi
et Sanctorum.[148]
Trong cách nầy,
tiến trình của người có niềm tin hết sức tăng nhanh, phần lớn vì họ phát khởi
nhiều công đức từ hành vi đức tin của họ, và một phần vì làm lợi lạc do công
đức phát sinh từ giai vị Viễn hành địa. Vì sự cứu độ trong Phật giáo Đại
thừa không tuỳ thuộc chỉ vào giáo lý, mà còn nhờ vào vận dụng ‘công đức’ theo
cách các điều kiện được phát sinh trong đó nó có thể được đánh giá đúng và hiểu
rõ. Có ích lợi gì khi thuyết giảng giáo
lý cao quý cho bàn tay mill hands of Manchester?
Trong chừng mực
khía cạnh của nghiệp. Một vài lời vẫn cần phải nói về ba phương diện khác trong
công hạnh của hàng Bồ-tát.
1.
Động
cơ của các ngài là tâm từ bi, thanh tịnh và đơn thuần.
2.
Một
bước quan trọng trong sự thể hiện tâm nguyện từ bi của các ngài là Nguyện (vow,
s: praṇidhāna), sẽ xảy ra hai lần trong công hạnh của các ngài. Lần thứ nhất là
lúc ban đầu, khi ngài phát tâm đạt đến giác ngộ tối thượng và cứu độ chúng
sinh,[149] và đến khi ở địa thứ 9 của công hạnh,
khi lời nguyện trở thành một ý nguyện hoàn toàn vị tha (vô công dụng hạnh; anābhogapraṇidhāna),[150] điều mà, như một hoạt động thuần tuý
tinh thần, có thể đạt được những tác dụng vi diệu nhất.
3.
Khó
hiểu nhất cho người Châu Âu hiện đại, là năng lực diệu dụng (wonderworking
powers) của các ngài. Nó là các cảnh giới thường xảy ra trong giai vị tứ thiền,[151] và Bồ-tát Viễn hành địa hoàn toàn
thông đạt cảnh giới nầy.
Theo đó, một
cách chủ quan, thân thể các ngài không còn là thân vật chất thô trọng của yếu
tố đất, mà là ‘pháp’ thân (‘dharmic’ body) của bậc thánh, một thân ‘cứng như
Kim cang,’ vượt lên trên mọi hoàn cảnh phàm trần, thế giới các ngài dự vào
chẳng phải là thế giới thô động hoang dã, với những sự kiện vây quanh chuẩn mực
phàm tình, mà là thế giới tạo tác từ nghệ thuật, được gợi lên bằng năng lực
thần thông của ngài, một màn huyễn thuật phát sinh từ như huyễn tam-muội[152] (māyopama-samādhi; e:unwavering concentration) của ngài. Điều thiện
mà các ngài làm cho người khác không chỉ nằm trong lời dạy, mà còn trong sự
biến hoá thần thông để khai mở tâm trí mọi
người đến với thông điệp của các ngài. Điều nầy khó tin, nhưng là thực chất của
giáo lý Đại thừa.
IV
Bây giờ chúng
ta có thể trở lại vấn đề tương phản hiển nhiên giữa đức tin đạo Phật và vấn đề
Tự lực (Self-exertion). Ở Nhật Bản điều ấy được biết đến như là sự trái ngược
giữa Tha lực (j: Tariki ; e: OtherPower) và Tự lực (j: Jiriki; e: Self-Power).[153] Tha lực được đại biểu bởi Tịnh độ tông (Pure
Land schools), qua đó dường như đứng cùng phía với tín ngưỡng hữu thần (theistic
religions), và Tự lực được đại biểu bởi Thiền tông, vốn có Lão giáo như là một
tiền đề chính. Tuy nhiên, đó là dựa trên ý kiến cá nhân và nhầm lẫn khi công
nhận một đối cực giữa những ai ngồi một cách thụ động chờ mong người nào khác
giảu trừ cho họ những phiền tạp, và những ai thánh thiện và hăng hái chính mình
tu tập. Thực tế là những người tự nỗ lực tu tập cho chính mình phải có đầy tràn
niềm tin để thuyết phục mình tập trung năng lực vào chiều hướng riêng biệt đó,[154] và những người ngồi đợi Đức Phật A-di-đà
đến đón họ về cõi nước Cực lạc sẽ có nhiều cơ hội để nỗ lực chính mình khi họ
đến đó. ‘Tự lực’ và ‘Tha lực’ tạo thành một nhị nguyên, và tất cả nhị nguyên
thực chất đều là hư vọng và rốt ráo không thể nào có thể là tuyệt đối hữu hiệu.
Hơn nữa, trong
một hệ thống tư tưởng vốn không có ý niệm về ‘ngã’, sự phân biệt giữa ‘mình’ và
‘người’ chỉ là giả tạm. Tương tự như vậy, từ một hệ thống tuyên bố tất cả các pháp đều không sinh khởi” (nirīhaka;
inactive),[155] thì sẽ không có một phát biểu mang tính giáo
điều về tác nhân cứu để mong chờ. Tình huống nầy khác biệt rất lớn
đối với tín điều đang thịnh hành
trong Cơ-đốc giáo. Như ý niệm của cả Thiên chúa giáo và Phật giáo, sự cứu độ,
hay giải thoát, phải có liên hệ hiển nhiên chung sức giữa cá nhân với những
năng lực tâm linh. Đối với người Thiên
chúa giáo, dường như có một ý nghĩa chủ đạo để tìm kiếm giáo điều được định
hình toàn diện sẽ vạch rõ sức mạnh tương quan giữa hai yếu tố cho mọi trường
hợp. Theo đó, vô số thảo luận về tính linh lợi lạ thường và nỗ lực xác định
trọng lượng tương quan của ân huệ thần thánh và sức mạnh việc thiện của con
người, cũng như mối tương quan giữa Ý chí thần thánh (Divine Will) đối với tự
do của ý chí con người. Những định hình có tính giáo điều của dạng này không
được để ý bởi những người Phật tử, những
người tin rằng tình huống sẽ thay đổi hoàn
cảnh.
Chẳng hạn,
chúng ta đọc được rằng chính Như Lai, người đã ban cho (dāsyāmi) các chúng
sinh đang bị khổ đau, ‘cả sự an lạc và Tịch diệt (Final Rest).’[156] Mặt khác, chúng ta có, ‘các người hãy nỗ
lực tinh tấn (kiccam ātappam), Như Lai chỉ là người chỉ đường (akhātāro),’[157]
‘Mọi người
chính là kẻ nương tựa (nātha) của chính mình, chứ làm sao nương tựa người
khác được?’[158] An trụ như vậy, chính quý vị là đang là
hải đảo của chính mình và là nơi nương tựa của chính mình, đừng nên tìm một nơi
nương tựa nào khác![159] Đạo Phật đưa ra hai giải thích khác nhau
cho sự không nhất quán giữa giữa tuyên bố đặc biệt (ad hoc) như vậy.
Thượng toạ bộ tin rằng những trường hợp nhấn mạnh vào ‘nỗ lực tự thân’ là thuộc
về truyền thống trước và có thẩm quyền hơn, trong khi đó những gì nhấn mạnh vào
niềm tin và năng lực của Đức Phật là đại biểu cho sự nhân nhượng về sau đối với
sự yếu đuối của con người. Những khẳng định của họ không thể làm bằng chứng, riêng
tôi thích giải thích Đại thừa theo tất cả những gì xác định hay phản đối í niệm
‘hữu ngã–self-activity’ là những phương chước sư phạm, không có mục đích
gợi ý cho lý thuyết phổ quát hợp lý. Đó là những phương thức ban tặng cho mỗi
người có những tính khí khác nhau và được định vị trong những tầng bậc khác
nhau của sự chín muồi tâm linh và niềm tin cống hiến, thích hợp với một số
người và không thích hợp với những người khác, và không có sự đối lập giữa tầng
lớp cao hơn và thấp hơn.
Trong thực tại
chân thực, giải thoát (mokṣa) là tiêu mất những trói buộc vốn nhốt con người trong
thế giới hữu vi và nhiễm ô của luân hồi, và là sự hồi phục sự tự do tuyệt đối
của thực tại vô vi không nhiễm ô của niết-bàn. Thế thì ai và cái gì được cứu
độ? Chẳng có gì và chẳng có ai cả. Chẳng có cái gì ở đây được đưa qua bên kia,
vì niết-bàn là das ganz Andere.[160] Cũng chẳng có ai được cứu độ, vì ‘người
nào còn phân biệt giữa mình và người khác là vẫn còn bị ảnh hưởng của nghiệp,’[161] và do vậy nên không có sự độ thóat.
Điều không nói
ra được trong thực tại chân thực, tiến trình giải thoát, tuy nhiên, có thể được
nhìn từ ba quan niệm:
1.
Như
là kết quả của một tác nhân được nhân cách hoá ở bên ngoài chấp nhận niềm tin.
2.
Như
là kết quả của nỗ lực cá nhân được hướng dẫn do một bậc thầy không sai lầm.
3.
Như là
việc làm của Tuyệt đối (Absolute), hay pháp giới (dharmadhātu), với điều mà Đức
Phật A-di-đà sẵn sàng để đồng nhất.
Trong ba quan
niệm trên, điều thứ ba sẽ là hợp lý nhất vì, ngựơc lại với điều thứ nhất dựa
trên trí thức, cao hơn niềm tin rất nhiều. Và ngược lại với điều thứ hai, tin rằng
không ai có thể thực sự dựa vào một cái ‘bản ngã’ vốn chỉ là ảo tưởng, và rằng,
trong một trường hợp nào đó, một cá thể yếu đuối không thể có được sức mạnh để
hướng thẳng đến mục đích tâm linh của chính họ. Và vì sự phân chia giữa hai
quan niệm 1 và 2, huyền bí thường có khuynh hướng xuất hiện lờ mờ đườgn phân
ranh giữa bên trong và bên ngoài.
‘Hãy nhìn vào
bên trong, người chính là Phật.’ ‘Ta và cha ta là một.’ “Ta không phải là kẻ tạo
tác, cái của ta không phải là kẻ tạo tác.” ‘Không phải ta nói mà chính Cha ta
là người đang nói trong ta.’ Và như thế... ‘Không phải ý muốn của ta nhưng ý
của Cha được làm nên.’ Ngài nói với vũ trụ, và bắt đầu cảm thấy rằng Sức mạnh
mà ngài đang tìm kiếm đang ở trong mình, bằng sức mạnh đó, ngài chữa bệnh và
giáo hoá, khiến cho nó đồng nhất, không phải là sức mạnh của ngài ở trong hay ở
ngoài, mà là một lực vận hành theo cách êm đềm riêng của nó.[162]
V
Những giáo
lý nầy dĩ nhiên nói lên là để đối chiếu với Cơ-đốc giáo. Từ quan điểm của Thiên
chúa giáo, sự so sánh nầy đã được khéo léo tiến hành bởi Linh mục de Lubac S.J.[163] cho giáo
hội La mã và do H. Butchkus[164] cho
giáo hội Lutherans.[165] So sánh của
tôi hình thành từ quan điểm đạo Phật, ở đây miễn cưỡng vì nhu cầu khúc chiết
vốn phải bào chữa cho tính thẳng thừng mà, trong trường hợp nào đó, sẽ không
xúc phạm những ai nhận một đòn đánh mạnh mà không đánh lại.
1.
Trong khi đạo Phật
muốn thừa nhận Jesus như là một vị Bồ-tát trong vô số vị Bồ-tát khác, ý niệm ngài là độc nhất, là con
của Thượng đế,... là điều sẽ bị rút phép thông công (anathema) đối với
họ, là giống như dẫn đến tinh thần không khoan dung, bức hại và đổ máu. Đạo
Phật mong muốn có nhiều đấng cứu độ, không hạn chế điều đó.
2.
Điểm nhấn mạnh chính là nằm trong ‘máu của Jesus Christ’
và trên Thập tự giá (Crucifixion)[166] là
khó chịu rõ rệt đối với người Phật tử.
3.
Sự cứu độ bao hàm trong sự chuyển hoá vô minh. Không thể
được tác động bởi sự đào tận gốc rễ tội lỗi được nhìn thấy như là cuộc phiến
loạn chống lại Thượng đế. Một con người đạo đức có thể không có nhược điểm, và
trong nhiều kiếp sắp tới, anh ta cũng vẫn phải chuyển hoá dấu tích vô minh trước khi trở thành giác ngộ hoàn
toàn.
4.
Không có sự ‘tha thứ tội lỗi.’ Nghiệp theo dòng tiến
trình của nó, và hệ quả của hành vi không bao giờ bị tiêu mất, dù có lúc nó bị
che phủ, và qua tu tập tâm linh đến mức độ nào đó, nó có thể được gột sạch.
5.
Đạo Phật không mang tính chất lịch sử, và không ai muốn
biết chính xác khi nào Đức Phật A-di-đà phát những lơì Đại nguyện, hay khi nào
Bồ-tát hiến thân mình cho cọp đói.[167] Cũng chẳng
xem đây là sự nhu nhược. ‘Nền tảng lịch sử’ của Cơ-đốc giáo luôn luôn không hỗ
trợ cho đức tin, và sự mổ xẻ chuyện Phục sinh (Resurrection) thường xuất hiện
để lại cho họ nhiều căn cứ không chắc
chắn trong thực tế.
6.
Hằng thế kỷ của những cuộc tranh luận về Thần học đã tập
cho người Thiên chúa giáo quen thuộc qua nhiều với sự đối nghịch giữa ‘việc
thiện’ và ‘ban phước’ để họ thấy rằng không dễ dàng để hiểu thế nào là ‘ban
phước’ có thể được y cứ trên việc thiện hay ‘công đức,’ như đã được giải thích
ở đoạn III.
7.
Rất tự nhiên đối với người Phật tử bình dân, khái niệm
con người đối với siêu nhân, có nghĩa là Đức Phật đối với Pháp (Dharma), A-di-đà
đối với pháp giới (dharmadhātu). Điều nầy trái ý muốn rất nhiều đối với tư
tưởng Cơ-đốc giáo.
8.
Cảnh giới cao hơn trong sinh họat của Bồ-tát ‘thiên thân–celestial’
cho thấy điều tương tự rất mật thiết với học thuyết lý tưởng cộng thông (communicatio
idiomatum).
9.
Khẳng định của tư tưởng Đại thừa rằng các Đấng cứu độ,
chư Phật cũng như Bồ-tát, đều chỉ là tưởng tượng, ảnh tượng trong giấc mơ, các
ngài phải xuất sinh từ tánh không (śūnyatā) và là phóng chiếu tâm thức bên
trong của con người, là gần như khó hiểu nổi đối với người Thiên chúa giáo,
những người thấy khó tin rằng không ai có thể ấp ủ một đề tài như thế nầy trong
niềm tin chân chính.
Đây đúng hơn là sự dò dẫm phương thức tiếp xử một vấn đề
lớn. Khi chúng ta so sánh những định hình giáo lý của hai tôn giáo như đạo Phật
và Thiên chúa giáo như vậy, chúng ta thường cảm thấy có nhiều hội tụ với nhau
rất gần gũi, đến mức dường như chắc chắn sẽ gặp nhau một số điểm. Nhưng thực tế
không bao giờ thực sự gặp nhau, và khi chúng ta nhớ đến căn gốc và nguyện vọng
đàng sau các định hình đó là có một vực thẳm mở ra ngay tức thì.
Để lại đằng sau học thuyết định hình, chúng ta có lẽ quay
sang dạng người lý tưởng mà những tôn giáo nầy có khuynh hướng sản sinh ra. Hố
thẳm lúc đó càng mở rộng ra hơn. Có lần tôi đọc được sưu tầm về các bậc thánh
của giáo hội La mã, và thấy trong đó không có một nhân vật nào để một Phật tử
có thể áp dụng hoàn toàn. Điều nầy không có nghĩa họ là con người không đáng
giá, mà họ là những người Phật tử tồi, dù họ là người Thiên chúa giáo hoàn hảo.
Rốt ráo, khi nhìn bằng trực giác thuần tuý từ lúc phôi thai, tất cả tôn giáo có
lẽ đều đầy năng lực sáng tạo bởi có cùng cái nhìn về bản tánh và chân thật của
con người. Trong học thuyết định hình của họ, không có tính đồng nhất như vậy
có thể bị phân chia, dường như hai tôn giáo có nhiều điều không thể so sánh với
nhau, và thường có những hiểu lầm không thể nào tránh được.
PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA
☸
Dẫn nhập
Thuật ngữ Đại thừa (Mahāyana; Great Vehicle) là chỉ chung
cho những ý tưởng chi phối dòng thứ nhì trong tư tưởng đạo Phật. Người ta dùng
từ cỗ xe (vehicle), vì giáo pháp đạo Phật, hay Pháp (Dharma; p: Dhamma,
do từ căn là dhṛ) được quan niệm như là chiếc bè, hay chiếc thuyền, đưa
chúng ta qua khỏi biển cả cuộc đời đau khổ này đến ‘Bên kia–Beyond,’ đến nơi
giải thoát, đến niết-bàn. Những người tán thành gọi là đại (mahā)
như là lời tán thán tính chất phổ quát của nguyên lý và mục đích của giáo lý,
khác với tính chất hạn hẹp của các trường phái đạo Phật khác, mà họ mô tả như
là ‘Tiểu thừa–Hīnayāna’ (cỗ xe nhỏ), một thuật ngữ thường vốn không thân thiện dành
cho những người áp dụng giáo lý ấy. Ngày nay Đại thừa được giới hạn ở một nửa
phần phía Bắc của Phật giáo thế giới (Phật giáo Bắc truyền), và các quốc
gia Phật giáo như Nepal, ttg, Trung Hoa, Triều Tiên và Nhật Bản hầu như toàn là Đại thừa. Phương
Nam, trái lại, bị chi phối bởi khuynh hướng Thượng toạ bộ, một trong 18 bộ phái
của Tiểu thừa, và sắc thái đạo Phật của họ chính là quốc giáo của Tích lan (Ceylon),
Miến điện (Burma) và Thái lan (Siam). Mười bảy bộ phái Tiểu thừa khác biến mất
700 năm sau khi những người theo đạo Islam[168] càn quét
miền Bắc Ấn Độ và phá huỷ các tự viện Phật giáo đang thời kỳ hưng thịnh.
Thời điểm sinh khởi Đại thừa trùng hợp với khởi nguyên
Ki-tô giáo. Chắc phải có sự tập hợp các phong trào từ thế kỷ đầu trước kỷ
nguyên Ki-tô, nhưng nhiều ý niệm căn bản phải lùi ngược lại, như chúng ta sẽ
thấy, là từ thế kỷ thứ IV hay thứ V ttl., nếu không muốn nói là từ chính Đức
Phật. Nhưng nền văn học khởi động từ giáo pháp Đại thừa được xác thực chỉ là
vào khởi đầu kỷ nguyên Ki-tô giáo, và điều nầy phát khởi một sự quan tâm, và
đến chừng mực nào đó chưa được tách bạch đến vấn đề lịch sử. Làm sao chúng ta
giải thích cho sự nhận xét rằng đạo Phật, ngay thời điểm khi Cơ-đốc giáo tự
khởi phát, phải chịu sự cái cách triệt để giáo lý cơ bản của họ để làm cho nó
giống nhiều với Cơ-đốc giáo hơn là đạo Phật đã có trước đó? Để trình bày bản
chất của vấn đề, tôi sẽ đề cập ngay là có mối quan hệ song song giữa Đại thừa
và Cơ-đốc giáo. Trước hết là từ bi (karuṇā), đức tính thứ yếu trong Phật
giáo nguyên thuỷ, được nhấn mạnh nhiều và nhiều hơn, và được chuyển ngay thành
trung tâm của toàn cảnh. Điều nầy có lẽ gợi cho chúng ta điểm nhấn của Cơ-đốc
giáo về ‘tình yêu–love.’ Thứ hai, chúng ta nghe nói về con người từ bi thường được gọi là ‘Bồ-tát,’ mà lời phát
nguyện chính của ngài đối với lòng tri ân của chúng ta là các ngài hy sinh đời sống
của họ cho sự lợi lạc của tất cả. Điều nầy gợi cho chúng ta chính Christ là
người chịu chết thay con người để cho
tội lỗi của họ được tha thứ. Và thứ ba, đạo Phật trong thời kỳ nầy cho thấy mối
quan tâm về thời kỳ mạt pháp (eschatological), và nhiệt tâm mong ước một Đức
Phật ‘sẽ thị hiện’ là Đức Phật Di-lặc (Maitreya; p: Metteya), ‘Đức Phật Từ
Thị.’ Như vậy chúng ta có ít nhất ba sự cách tân trong Phật giáo Đại thừa, mỗi
điểm trong đó đều gần với tinh thần cựu Cơ-đốc giáo cũng như rất gần với đạo
Phật nguyên thuỷ.
Đây chẳng phải là tất cả. Thỉnh thoảng chúng ta tìm thấy
có sự trùng hợp ngẫu nhiên từng chi tiết giữa kinh điển Đại thừa Phật giáo và Cơ-đốc
giáo. Chỉ một trường hợp cũng đủ. Vào lúc khi Mặc khải của Thánh John (Revelation
of St. John) được viết ra ở Hy lạp nơi miền Đông Địa trung hải, các nhà Đại
thừa đã cho ra đời ở miền Nam Ấn độ một trong những bộ Kinh tôn quý nhất, đó là
Bát thiên tụng Bát-nhã. Sách Khải
huyền (Revelation, v. I) là chỉ cho cuốn sách ‘phong kín–closely sealed’
bởi bảy dấu ấn, và tương tự như vậy, Kinh Bát-nhã được gọi là cuốn Kinh ‘được
phong bằng bảy dấu ấn.’ Kinh được truyền cho vị Bồ-tát có tên Thường Đề (Bồ-tát
hay khóc–Ever-weeping; s: Sadāprarudita),[169] và Thánh John
‘khóc tức tưởi’ (v. 4) vì ngài thấy không có ai xứng đáng để mở cuốn sách và
bóc 7 dấu ấn. Điều nầy chỉ có thể làm được do Jesu,[170] bị sát hại
trong sự hy sinh (v. 9). Tương tự như vậy, trong phẩm 30 và 31 của cuốn kinh
Đại thừa nói trên mô tả chi tiết Bồ-tát Thường Đề đã tự hy sinh mình như thế
nào, và qua đó, ngài trở nên xứng đáng với Trí huệ Bát-nhã (xem tr. 62-4). Chi
tiết song song nầy đáng để ý không chỉ vì những tương đồng về mặt hợp lý tôn
giáo, mà còn đối với thực tế là cả hai bên đều có con số bảy và toàn bộ ý niệm
‘cuốn sách với các dấu ấn’ là chỉ cho Do thái giáo vùng Địa trung hải (Judaeo-Mediterranean)
đúng hơn là chỉ cho truyền thống Ấn Độ. Đây là một phạm trù kết quả cho những
nghiên cứu xa hơn. Ngay hiện tại, chúng ta chưa thể giải thích cho sự song song
giữa sự phát triển ở vùng Địa trung hải và Ấn Độ, nơi diễn ra ngay lúc đầu kỷ nguyên Thiên chúa giáo. Đối với cách
hiểu về Đại thừa, đó là điều đầy ý nghĩa
và không nên bỏ qua.
Trong thực tế, về mặt địa lý, hai vùng Ấn Độ có liên hệ với Địa trung hải nơi Phật giáo Đại
thừa phát sinh, một mặt chúng ta có miền
Nam Ấn Độ, vốn rất mật thiết liên hệ buôn bán với đế quốc La mã, như được biểu
hiện qua những kho tích trữ khổng lồ tiền đồng La mã được tìm thấy trong những
năm gần đây. Và đó là vùng chung quanh Nagarjunikonda, ở miền Nam, gần đền Amaravati,
vốn được gọi chính xác là một ‘tổng hợp của Dravido-Alexaridrian’[171] mà truyền
thống đã xác định sự phát triển Kinh điển Đại thừa, có nghĩa là Kinh Bát-nhã,
và là nơi mà ngài Long Thụ (khỏang năm 100 sau tl.), đại triết gia của Đại thừa
đã sinh sống. Trung tâm thứ hai của sự phôi thai Đại thừa là miền Tây bắc Ấn Độ, nơi các chính quyền kế
vị của Alexander Đại đế tiếp tục mở ra một tuyến thường xuyên để triết học Hy lạp cổ đại (Hellenistic)[172] và La mã (Roman) ảnh hưởng đến, như nghệ thuật
được tìm thấy ở vùng đó đã chứng tỏ đầy đủ.
Sự mở rộng đến nước ngoài, những quốc gia ngoài Ấn Độ quả thực là một
khía cạnh để phân biệt Đại thừa với những bộ phái đạo Phật cổ xưa.
Chúng ta biết rất
ít về những nguyên nhân thực tế dẫn đến cuộc cách mạng tư tưởng trong đạo Phật.
Tuy nhiên, có hai nguyên nhân, dường như
chắc chắn, đó là sự cạn kiệt lý tưởng A-la-hán, và sức ép của giới cư
sĩ. Đối với điều thứ nhất, Phật giáo nguyên thuỷ được phác hoạ để xuất sinh một
dạng bậc thánh như là A-la-hán–là người đã giải thoát tất cả đối với vòng luân
hồi sinh tử. Ba hay bốn thế kỷ sau khi Đức Phật nhập niết-bàn, phương pháp đầu
tiên khiến xuất sinh A-la-hán với số lượng dồi dào đã mất sức thuyết phục mạnh
mẽ, ngày càng ít chư tăng đạt đến mục tiêu, và sự tin tưởng theo đuổi thời gian
để thành A-la-hán đã hết. Khi trông mong kết quả không còn sẵn sàng nữa, điều
tất nhiên là một bộ phận của tăng đoàn phải tìm kiếm con đường mới, và họ thay
thế lý tưởng A-la-hán bằng lý tưởng Bồ-tát.
Mối quan hệ giữa chư tăng với cư sĩ luôn luôn không ổn
định. Ở đây nền tảng của nó là gót chân Achilles[173] của toàn bộ
lâu đài cao rộng. Đại thừa trao nhiều trách nhiệm lớn hơn cho hàng cư sĩ. Có
thể kể nhiều hỗ trợ rộng rãi cho sự nhấn mạnh vào việc phụng sự, vì quan niệm của
Đại thừa là con người quan trọng như pháp (dharma; dhammā), vì dự tấn công của
tư tưởng Đại thừa vào tính tự lợi của tăng sĩ chỉ nghĩ đến lợi ích của riêng
mình, vì sự phê phán các vị tăng ‘kiêu mạn’ và ‘tự phụ,’ vì những câu chuyện các
vị cư sĩ giàu có, như Duy-ma-cật, người vượt trên tất cả các vị tăng trưởng lão
và được kính trọng nhất bằng sự rực sáng tráng lệ từ thực chứng tâm linh cuả
ông, và vì niềm tin của họ rằng các bậc thánh phải chấp nhận số mệnh chung với
hàng phàm phu. Sức ép của quần chúng cũng
thuyết phục chư tăng trơe nên càng có ích một cách hiển nhiên hơn đối với hàng
đệ tử tại gia của họ. Chư tăng tự mình gia tăng mối quan tâm đến chính mình
trong những vấn đề sinh hoạt hàng ngày, và bằng những hoạt động như chiêm tinh,
yếm tà, đoán thời tiết, chữa bệnh, v.v... đã gắn chính họ vào khía cạnh huyền
thuật trong sinh hoạt của mình. Ước muốn của giới bình dân câm lặng rất xem
thường những hội đoàn có tính chất tăng lữ chứng tỏ tột cùng tính tối cao.
Kiến thức của
chúng ta về Đại thừa phát xuất từ nền văn học rất đồ sộ, vốn được biên soạn
chừng hơn 2000 năm, phần lớn là tiếng Sanskrit, còn có một số bằng tiếng Tây
Tạng, tiếng Hán và ngôn ngữ vùng Trung Á. Dù rất nhiều kinh Đại thừa đã bị mất,
nhưng khối lượng của những gì còn lại quá khổng lồ đến nỗi chưa có người nào đã
đọc hết được. Quan điểm của chúng ta về đề tài nầy, do vậy còn phải thăm dò, và
những khám phá trong tương lai có thể buộc phải duyệt xét lại. Văn hệ nầy rơi
vào ba loại chính–Kinh, Luận (śāstra) và Tantra (chú/nghi quỹ). Kinh là
văn hệ có căn cứ đích xác nhất, và không một đệ tử nào của Đại thừa muốn khước
từ một cách công khai điều gì có trong kinh. Tính chất xác thực của Luận tạng
thì hạn chế hơn, và nso chỉ ràng buộc trong những thành viên của các trường
phái triết học mà chúng đại biểu; còn văn hệ thuộc về Tantra thì hạn chế
hơn, sự phân loại của nó bị giới hạn trong vài người thành thạo của một hệ phái
Mật tông.
Kinh khẳng định là những lời dạy của chính Đức Phật, và
trong Kinh luôn luôn nêu ra ngay lúc mở đầu nơi chốn chính xác, hoặc là ở nhân
gian hoặc ở trên cung trời, nơi được tin rằng Đức Phật đã giảng nói bộ kinh đặc
biệt nầy. Trong trường hợp kinh điển Đại thừa, được kết tập lại hơn 5 thế kỷ
sau khi sự kiện nhập diệt mang tính lịch sử cảu Đức Phật, đây dĩ nhiên là tưởng
tượng có hiện ý. Nếu một sử gia được yêu cầu phải định nghĩa một bộ kinh, có lẽ
họ sẽ nói rằng đó là một tư liệu ẩn
danh, thường được sưu tập một cách tinh vi qua nhiều thế kỷ, vốn nó phải có ý
nghĩa không bị tranh cãi hay phân chia tác phẩm. Tốt đẹp nhất trong tất cả kinh
điển Đại thừa là Kinh Diệu pháp liên hoa, một bộ kinh của năng lực thần
thông và trang nghiêm kỳ diệu. Có vài bản dịch của người Châu Âu, nhưng không
có bản dịch nào thậm chí chính xác được một chút. Bộ kinh truyền đạt tri thức
lớn nhất là những bộ Kinh thuộc hệ Bát-nhã. Trong đó chúng ta có chừng 30 bộ đã
được duyệt xem lại, được biên soạn trong tiến trình chừng 6 hay 7 thế kỷ. Nhiều
Kinh khác còn được lưu giữ, vài trăm bộ như vậy, nhưng ít có điểm đặc biệt để
liệt kê thêm. Sự phát triển, liên tục, chậm và đo lường được của tạng Kinh nầy
khiến cho nó có vẻ là chỉ công trình của con người hơn, và một số vẻ oai nghiêm
của nó vẫn còn được cảm thấy ở Nhật Bản, Tây Tạng, và thậm chí ở Châu Âu.
Luận (śāstra) là
một chuyên luận được viết bởi một người nổi tiếng, hoặc là trong hình thức luận
giải một bộ kinh, hoặc là trong hình thức nột bộ sách giáo khoa có hệ thống.
Khi tôi nói ‘một người nổi tiếng,’ dĩ nhiên, không có nghĩa là tôi không biết
đến tác giả thực sự, mà chỉ là gán cho một vài vị bác học trong ‘giáo đoàn.’ Vì
có một khuynh hướng đơn giản hoá vấn đề bằng cách quy tác phẩm của nhiều tác
giả vào cho một vài tên tuổi lớn. Bốn tên tuổi lớn nhất là, Long Thụ và Thánh
Thiên, khoảng chừng vào năm 150 stl., và Vô Trước và Thế Thân, khoảng chừng vào
năm 400 stl. Hai vị trước là người sáng lập trường phái triết học Trung quán,
trong khi hai nhân vật sau là khai sáng
trường phái đối thủ là Du-già hành tông. Hai trường phái nầy thường tham gia
vào những cuộc tranh luận, và tác phẩm của tác phẩm nầy không có giá trị đối
với tác phẩm kia. Thẩm quyền có giới hạn của ‘vị bác học trong giáo đoàn’ dựa
trên ba yếu tố: đời sống thánh hạnh, bác học, và sự kích thích trí huệ qua hình
ảnh chư Phật hay chư Bồ-tát huyền thoại. Năng lực thần thông diệu dụng, dù đáng
ao ước, tuyệt đối là không cần thiết.
Kinh và Luận là những tư liệu chung thích nghi cho mọi
người quan tâm đúng mức để đem lại kết quả cho họ. Ngược lại, Tantra là tạng bí mật, chỉ được trù định trước dành
cho ít người đã được chọn lựa, những người đã được truyền phép điểm đạo riêng,
hay được truyền phép quán đảnh (consecrated), bởi một bậc Đạo sư điểm đạo hay Guru.[174] Để cho
những người chưa được điểm đạo vào trong bí mật của họ là một tội không thể tha
thứ được. Để ẩn giấu hiệu quả hơn nội dung của họ đối với người ngoài, họ vận
dụng sự huyền bí một cách cẩn trọng và ngôn ngữ ẩn mật. Nếu không có giải thích
bằng lời của các bậc đạo sư điểm đạo thì chúng thực sự vô nghĩa, và không tiết
lộ một điều gì quan trọng cả. Tantra
cho những chỉ dẫn ban đầu cho sự thực chứng các pháp tu tập Du-già
(Yoga). Chúng được biên soạn phong phú vào khoảng từ năm 500 trở đi, và chúng
ta có đến cả hàng ngàn trang. Nghiên cứu có tính lịch sử mới vừa được bắt đầu,
và do người bên ngoài không có được đầu mối để lần vào trong ý nghĩa của chúng,
hằng ngàn hằng ngàn trang đầy dẫy những câu như ‘rùa vũ trụ–cosmic tortoises’,
‘thiên cẩu–sky dogs’, hoặc là chư thiên mặc ‘áo lông’ hay ‘da hổ,’ sống trong
‘thiết thành’ hay ‘pháo đài bằng đồng,’ và ‘nắm một cái đinh ba màu đen với bốn
cái đầu dính trên đó và trái tim rỉ máu, ở đó, hai con rắn độc màu đen đang hút
máu.’ (xem R. de
Nebesky-Wojkowitz, Oracles and Demons of Tibet, 1956). Chúng ta làm gì
với tất cả các điều ấy? Trong mong muốn gây sửng sốt giới ngoại đạo của họ các
tác giả Tantra đã thiên về cách dùng ngôn ngữ có tính gợi ý tục tĩu và
giới tính. Lại nữa chúng ta đang ở chỗ không biết câu nói đùa cuả họ có nghĩa
là gì. Chúng ta có thể tưởng tượng được, đưa ra một trường hợp tương đương, một
nhà nhân loại học nhiệt tâm người Nhật Bản vào năm 3242 stl. (sic) trầm
tư về một mẩu thông tin được chọn lựa về một loài chim (ornithological) mà ông
ta đã tìm thấy trong bức thư của một chiến binh người Anh năm 1942, “Hai con
chim hồng tước đi vào trong biển, và bốn bộ ngực màu xanh lại hiện ra.’ Một vài
kiến thức vỡ lòng về quân đội Anh quốc chẳng bao lâu cho anh ta biết ý nghĩa
câu đó. Trong sự thiếu vắng, chắcd anh ta sẽ phải có phương kế để đoán đại,
chẳng có gì nhiều để tiếp tục nữa. Phần lớn những từ dùng trong Tantra
có thể tìm thấy trong từ điển của chúng ta–nhưng khi ấy không không giúp gì
nhiều để biết rằng ‘con cá trích đỏ’ chính là ‘cá hồng.’ Vào ngay lúc đó, chúng
ta có thể hình thành vài ý niệm về nguyên tắc chung của Tantra, dù chi
tiết cụ thể hoàn toàn đã quá lỗi thời với chúng ta. Thẩm quyền của Tantra
thường phát xuất từ Đức Phật huyền thoại, người tương truyền đã thuyết giảng về
thần chú trong quá khứ lâu xa cho vài nhân vật huyền thaọi khác, người đã
truyền thần chgú ấy cho đạo sư loài người, đại biểu cho sự khở đầu của dòng rất
dài gồm những vị Đạo sư (Guru) điểm đạo, các Guru nầy đã truyền trí huệ bí mật
cho từ thế hệ nầy đến thế hệ khác.
Đến đây chấm
dứt phần khảo sát về nguồn gốc văn tịch. Thêm vào đó, chúng ta có thể rút ra
nhiều thông tin từ vô số tác phẩm nghệ thuật diễn đạt tinh thần giáo lý một
cách chính xác và ấn tượng. Tác phẩm nghệ thuật Phật giáo cho phép phạm vi nhỏ gợi
cảm hứng sáng kiến riêng cá nhân người nghệ sĩ. Các hình tượng quá linh thiêng
là vì vậy, nó được hỗ trợ dù không thoả đáng
qua thiền định cũng như nguồn tích trữ của năng lực siêu nhiên. Chúng được làm
ra theo định hình tinh vi của các học giả và huyền bí, điều mà nghệ sĩ chỉ đầu
tư với một dạng hữu hình. Về phương diện thần thoại và nghi lễ thuộc Đại thừa,
các tác phẩm nghệ thuật nầy có thể dạy cho chúng ta rất nhiều.
Đại thừa trước
hết là phương thức sống, với một ý tưởng rõ ràng về tâm linh viên mãn và các
giai đoạn đưa chúng ta đến đó. Thêm vào nữa, nó đưa ra rất nhiều ý niệm huyền
học và học thuyết bản thể luận (ontology). Cuối cùng, trong nỗ lực tự giữ chính
mình chống lại ảnh hưởng thù địch, họ lên danh sách sự hộ trì của các nữ thần
và các năng lực huyền bí. Đây là ba phương diện của Đại thừa mà chúng ta bây
giờ sẽ khảo sát từng điều một.
Lý tưởng Bồ-tát
Sự sáng tạo lý
tưởng Bồ-tát và sự ra đời giáo lý tánh không (śūnyatā) là hai đóng góp to lớn
mà Đại thừa đã cống hiến cho tư tưởng nhân loại. Trong khi tư tưởng tánh không (śūnyatā) đã chứng tỏ một nguồn
không bao giờ cạn cho sự hấp dẫn nhiều thế hệ học giả và giới trí thức, đó là
‘Bồ-tát’đạo mà Đại thừa có được nhờ vào sự thành công của nó như là một tôn
giáo, và nó chứng tỏ khả năng thay đổi chính kiến của toàn vùng Trung Á; và
phía chiến thắng, trong một lúc, có nhiều tín đồ hơn mọi tôn giáo khác. Ở đây
là hình ảnh của một con người lý tưởng, người có thể khuấy động tâm tư của mọi
giới, dù giàu hay nghèo, có học hay mù chữ, mạnh hay yếu, tăng sĩ hay cư sĩ.
Đều có thể dễ dàng chiếm được sự thán phục của họ, vì nó phản ánh những gì tốt
đẹp nhất bên trong con người. Lý tưởng Bồ-tát cũng trở thành nền tảng cho hoạt
động trung gian, vì nó có thể được điều chỉnh cho vô lượng sự khác nhau của
hoàn cảnh con người. Phát xuất bằng sự nhiệt thành hy sinh, với mọi tài ba tháo
vát biện luận và đầy tinh thần tao nhã trong nghệ thuật, lý tưởng Bồ-tát đã là
một trong những ý niệm có sức thuyết phục mạnh mẽ nhất trong tư tưởng Á đông.
Quá hấp dẫn đến nỗi năng lực của nó, thậm chí như các trường phái Tiểu thừa
cũng sẵn sàng kết hợp với lý tưởng
Bồ-tát vào trong hệ thống giáo lý của mình trong một mức độ nào đó. Thế thì
“Bồ-tát– Bodhisattva” là gì? Tốt nhất trước hết phải giải thích từ thuật ngữ
Sanskrit, Bodhi có nghĩa là ‘giác ngộ–enlightenment’
và sattva có nghĩa là ‘hiện hữu–being’ hay ‘yếu tính–essence.’
Do vậy, một Bồ-tát là một người từ trong yếu tính hiện hữu của mình, thúc đẩy
bởi khát khao đạt được giác ngộ–là trở thành Phật. Tuy với dự hướng thành Phật,
nhưng để giúp mọi chúng sinh khổ đau, lòng vị tha của Bồ-tát đã trì hoãn lối
vào niết-bàn an lạc và thoát khỏi thế giới luân hồi sinh tử nầy cho riêng mình.
Từ góc cạnh
khác, một Bồ-tát được biết có hai động lực trội vượt–từ bi và trí huệ. Tâm từ
bi chi phối mọi công hạnh của ngài hướng đến chúng sinh thân thuộc của mình,
trí huệ là quan niệm về Thực tại (Reality). Giáo lý Đại thừa về tâm từ bi là
rất dễ, còn về trí huệ thì khó hiểu hơn. Mọi người lắng nghe một cách hài lòng khi
nói về họ, nhưng sẽ chán ngay khi cảm thấy mình bị lơ đi. Thế nên chúng ta bắt
đầu với tâm từ, để dành trí huệ cho phần sau.
Đạo Phật như đã
được biết đến, xem sự khác nhau giữa loài người và súc vật là không quan trọng,
và tâm từ bi bình đẳng, trong mọi trường hợp, nên trải rộng ra cho tất cả. Kính
trọng đến từng chi tiết đến đời sống và phẩm tính, cho quyền lợi và ước nguyện
của mọi loài chúng sinh là bổn phận cơ bản đầu tiên và cuối cùng của Bồ-tát.
Trong cuộc tranh luận với Học giả Saskya với Đại sư Tông-khách-ba vào năm 1400
stl., đối thủ của ngài, có lẽ do đãng trí, đã nghiến con rận giữa móng tay của ông
ta. Tông-khách-ba ngắt lời ông ta. Ngài nói rằng, ‘Trong khi chúng ta đang ở
đây tranh luận về những điều siêu hình học thâm thuý khó hiểu, tôi nghe lời
than van rên rỉ của một sinh vật nhỏ bé đáng thương vang trên không trung!’ Học
giả Saskya phải lùi lại phía sau rất nhiều bởi sự quở trách đã khiến cho chiếc
mũ của ông ta phải rơi xuống, ông ta bối rối rời khỏi lều trại, và phần chiến
thắng được dành cho Đại sư Tông-khách-ba và ‘Hoàng mạo phái’ của sư.” (R.
Bleichsteiner, Die gelbe Kirche, 1937, p. 84). Tương tự như vậy, hoàn
toàn thông thường khi Bồ-tát hy sinh thân mạng mình cho loài vật. Khi còn là
Thái tử ở thành Ba-la-nại (Benares), vị Bồ-tát mà sau nầy trở thành Đức Phật
Cồ-đàm (Gautama) đã quang mình trước cọp mẹ sinh năm cọp con đang đói kiệt sức.
‘Nhưng cọp mẹ vẫn không làm gì cả. Bồ-tát thấy vậy biết cọp mẹ quá yếu không
thể nhúc nhích được. Vì là người nhân từ, ngài không mang dao kiếm bên mình. Do
vậy, ngài cắt họng mình bằng thanh tre nhọn và té xuống gấn bên cọp mẹ. Nó mới
để ý thấy thân mình phủ đầy máu, và kịp thời nó ăn hết thịt và máu, chỉ để lại
xương. ’(Suvaṇna-prabhāsottama-sūtra, J. Nobel biên tập năm 1937, p.
214). Trong một ngày lễ khác, khi làm vua Śibi, Bồ-tát đã chuộc con bồ câu bằng
cách đổi một tảng thịt từ thân mình cho con chim diều hâu đã bắt được chim bồ
câu. (E. Lamotte, Đại Trí độ luận – Le Traité de la grande Vertu de
Sagesse, 1944, vol. I, pp. 255-6). Niềm thông cảm nầy đối với mọi loài
chúng sinh, bất luận là ai, rất giống như tinh thần ‘tôn trọng sự sống’ của Bác
sĩ Schweitzer, mà như tôi đã đọc được cách đây khá lâu, ông ta trải rộng đến
‘con linh dương, chim bồ nông, kiến, muỗi, sâu bọ, và thậm chí đến vi khuẩn
hình que bacilli.’ Ngay cả vi sinh vật cũng đã có trong tâm niệm của
tăng sĩ Phật giáo, họ được đặc biệt lưu ý không được sát hại các loài sinh vật
mắt thường không thấy được đang lúc nhúc trong nước và trong không khí.
Và không chỉ các loài chúng sinh giống như vậy không
thích khổ đau, mà chúng còn có khả tính giác ngộ. Mỗi mỗic đều có khả năng
thành Phật. Ẩn dấu trong mỗi loài chúng sinh, có trong dạng phôi bào những yếu
tố cần thiết cho sự chứng đắc giác ngộ. Thế nên ‘Con đường dẫn đến Phật quả
đang mở ra cho tất cả mọi loài.’ (Buddhist Texts, p.183).
“Ngay cả trong loài vật, tính cách của một vị Phật cũng
nên được thấy rõ, dù nó bị che đậy bởi dấu tích của vô vàn nhiễm ô.’(Buddhist
Texts, p. 183). Đến ngày những nhiễm ô ngẫu nhiên nầy sẽ hết, phút chốc
chúng được thấy là không thực thì chúng sẽ khiến cho nhiễm ô ấy tan biến tất
cả, lúc đó, Phật tính tự hiển lộ trong tràn ngập vẻ huy hoàng. Một phần nhỏ thiểu
số trong những người Đại thừa, đó là sự thực, tuyên bố rằng có một số người
được gọi là Nhất-xiển-đề,[175] là hạng
người bị loại trừ khỏi sự giác ngộ. Mà đa số lấn át hẳn đã phản đối thuyết dị
giáo nầy vốn đã len vào từ thuyết Gnosticism,[176] có lẽ là từ
Bái hoả giáo,[177] và đưa ra
lập trường của mình rằng mọi sự sống hữu cơ đều có trong chính nó không sớm thì
muộn khả tính đạt đến giác ngộ . Thế thì, ai ‘dám cả gan cản trở con đường
hướng thượng của chúng?’
Đó chính là tâm từ bi của Bồ-tát, là ý nghĩa của ‘lớn’, có nghĩa là vô hạn,
không bờ mé, và không phân biệt. ‘Ngài phát ra tâm đại từ đại bi đến tất cả mọi
chúng sinh, và ngài phát nguyện, ‘Ta sẽ trở thành kẻ cứu độ của chúng, ta sẽ
giải thoát chúng khỏi mọi khổ đau.’ (Buddhist Texts, no. 124).
Công đức tôi đạt được bằng những hành vi đạo đức
nầy, nguyện rằng sẽ khiến cho tôi
Có thể hoàn toàn an ủi cho nỗi khổ của mọi chúng
sinh.
Là thuốc thang cho người bệnh, Tôi sẽ là người
trị liệu và là người săn sóc,
Cho đến khi căn bênh kia không còn là điều để
nhớ đến nữa.
Bằng mưa rào của thức ăn và đồ uống, tôi sẽ giải
trừ nỗi khổ do đói khát;
Trong sự khan hiếm ở tận cùng kiếp sống, tôi sẽ
hoá thành thức ăn uống.
Và vì mọi nhu cầu, tôi sẽ là cội nguồn giàu sang
hoàn toàn không bao giờ chấm dứt,
Phụng sự chu đáo cho mọi nhu cầu của họ được đầy
đủ.
Chẳng kể gì thân mạng tôi, tất cả của cải, tất
cả công đức mà tôi đã thủ đắc hay sẽ thủ đắc,
Tôi xin từ bỏ không chút không chút mong cầu lợi
lạc cho riêng mình để thăng tiến sự lợi lạc cho những người khác.
(Buddhist
Meditation, p. 59.)
Trong thời hiện đại, trong khi có sự phàn nàn về khuynh
hướng Đại thừa là cường điệu, thật có sự ca ngợi mối quan tâm của mình đến lợi
lạc cho người khác. Nhưng có điều khó nhất để làm được là tâm từ bi không thể
nào đứng vững chỉ bằng một chân, không thể làm việc nầy nếu không có sự trợ
giúp của trí huệ, nên các vị Bồ-tát, thay vì làm việc lợi ích mọi lúc, các ngài
phải tiếp tục thúc đẩy mình tiến xa hơn đến mục tiêu xuất thế của Giác ngộ.
Thế thì điều gì là tâm từ bi của Bồ-tát? Đó là ước nguyện
không vị kỷ khiến cho người khác được an vui. Nay nó là:
1.
Không
biết rõ ràng điều gì lợi lạc cho người khác,
2.
Cũng
không biết tính tự lợi rõ ràng phải tránh xa.
1. Để làm cho
người khác an vui, mình phải có khái niệm điều gì làm cho họ được an vui. Vốn
đã có tính dại dột, người khác không phải luôn luôn có được sự am hiểu về điều
đó. Dù con rận không bị nghiền nát, nó vẫn tiếp diễn cuộc đời một con rận. Dù
con cọp được cho ăn, nó vẫn chỉ là con cọp. Và như thế. Ngay khi chúng ta bắt tay
vào những chi tiết thực tế, chúng ta mới thấy khó quyết định cái gì là tốt cho
những người khác, và cái gì thực sự lợi lạc cho họ. Phải chăng, chẳng hạn, đó là hành vi nhân từ khi
giết một con thú đang đau đớn, hay cho kẻ lang thang một ly rượu?
Nhưng đây chỉ
là những vấn đề tương đối vặt vãnh đi liền với lý lẽ nguỵ biện về tình thương.
Còn nhiều những khó khăn căn bản sinh khởi từ thực tế là điều tốt nầy có thể là
kẻ thù của một cái khác. Điều thiện cao nhất được biết là món quà giáo pháp (Dharma).
Trong trường hợp đó món quà từ những thứ khác, miễn là nó làm tăng trưởng lợi
lạc cho con người ở thế gian, đều có thể cản trở sự phát triển năng lực tâm
linh của họ, vì nó có thể trói buộc họ lâu hơn trong thế giới nầy và gia tăng
nỗi phiền muộn lo âu. Liệu chúng ta lúc đó có nên tăng cường làm lợi lạc vật
chất cho họ hay không? Trong kinh điển Đại thừa chúng ta thấy rất nhiều sự hùng
biện về vấn đề nầy, nhưng những thành tựu thực tế của các quốc gia Phật giáo
vẫn còn chưa đạt được mục đích. Điều nầy không có gì ngạc nhiên vì việc phụng
sự xã hội không chỉ là vấn đề của thiện ý, mà còn là hiệu quả của công việc.
Trước sự ra đời của phát triển kỹ thuật
tân tiến, không đơn giản khi chỉ cần phương tiện để sinh ra điều mà ngày nay gọi
là ‘tiêu chuẩn đời sống’ của người bình dân đến mọi mức độ có thể đánh giá
được. Thái độ của chúng ta về những sự phát triển này không dễ xác định. Mặt
khác tâm từ bi của chúng ta có lẽ sẽ khiến cho mình vui lòng khi nhin thấy mọi
người trở nên ít nghèo nàn hơn, họ sống lâu hơn, bệnh tật của họ được chữa trị
bằng sự tận tâm và phương tiện đầy đủ,
công lý được ban hành với tính nhân bản rộng lớn hơn, v.v...Mặt khác,
những lợi lạc nầy nhờ vào tổ chức mang tính kỹ thuật của xã hội hiện đại, khiến
cho kế đó đời sống tinh thần không thể nào đạt được. Bất luận câu trả lời như
thế nào, rõ ràng chỉ bằng trí huệ lớn mới có thể quyết định được thế tiến thoái
lưỡng nan cho vấn đề nầy.
2. Không chỉ là
ảnh hưởng, mà còn là động cơ khi làm việc thiện lại là một vấn đề nghiêm trọng
khác. ‘Từ thiện’ đã bị rơi vào nhiều tai tiếng vì nó thường có động cơ từ một ý
nghĩa sai trái, bởi ước muốn thương hại người nghèo, hay là mua đứt họ chỉ bằng
vài mẩu bánh mì. Nếu những người khác vốn thường vô ân bạc nghĩa đối với những
gì chúng ta đã làm cho họ, nếu họ ghét chúng ta vì những gì ta đã làm cho họ,
hầu như là họ đang ở trong tình trạng hoàn toàn hợp lý vì có chút tiên liệu
trước rằng ban đầu chúng ta nên xem xét lại chính mình về những gì chúng ta đã
làm, và họ chỉ vấn đề thứ yếu, hạ thấp họ chỉ còn là phương tiện hay chỉ là vật
chất của tham vọng làm việc thiện của chúng ta. Lợi lạc của lòng bao dung đối
với chúng ta không còn phải nghi ngờ. Chính lợi lạc cho người khác mới là vấn đề.
Ở mức độ cao của tâm thánh thiện mới cần thiết để làm việc thiện cho người khác
mà không làm tổn thương hay kích thích thích họ. Chỉ với tâm thuần khiết mới có
cái nhìn thiết yếu để quyết định điều gì là lợi lạc đích thực cho người khác,
và chỉ lúc đó mới có động cơ thuần tịnh. Trong kinh điển, năng lực thực sự làm
lợi lạc cho người khác được xem là rất cao và là đức hạnh hiếm có, là sự nở hoa
tối hậu và vi diệu nhất của sự phát triển chín muồi trí huệ Bát-nhã. Cách đây
800 năm, Milarepa, bậc đại thánh tăng Tây Tạng, khi có đệ tử hỏi ngài: ‘Chúng
con có thể tham gia những bổn phận ở thế gian, một việc làm nhỏ, như làm lợi
ích cho người khác chăng?’ Milarepa trả lời:
‘Nếu
không có chút nào tính tự lợi dính vào bổn phận đó, thì có thể được. Nhưng sự
xả ly như vậy thực sự rất hiếm, nên những việc làm dự định đem điều tốt lành
cho người khác ít khi thành công, nếu không hoàn toàn thoát khỏi tính tự lợi.
Dù không mong cầu lợi lạc cho người khác, cũng khó cho những việc làm vì sự
thích thú riêng của mình mà đưa đến sự thành công. Như thể một con người chết
đuối đang cần sự giúp đỡ của người khác mà lại cố gắng cứu người khác trong
cùng cảnh ngộ. Mọi người không nên nôn nóng và vội vã đặt cho mình việc cứu
giúp người khác trước khi chính mình trực nhận Chân lý trong tính toàn diện của
nó; nếu làm như vậy, sẽ giống như người mù dẫn người mù. Hễ còn bầu trời, thì
chúng sinh còn mãi không hề cạn dứt để
cho mình cứu độ; và đối với mọi người có được cơ hội cứu độ như vậy. Đến khi cơ
duyên đến, tôi khuyến khích quý vị chỉ cần có một sự phát tâm, gọi là tựu thành
Phật quả vì sự tốt lành cho mọi loài chúng sinh.’
(W. Y. Evans-Wentz, Tibet’s Great Yogi
Miarepa, 1928, p. 271).
Đó là niềm tin
chung nhất của đạo Phật rằng cuộc sống bình thường là không thoả mãn và vô
vọng, lộ rõ sự đau khổ triền miên, và trong mọi trường hợp đều là phù phiếm, vì
cái chết sẽ thôn tính ngay tất cả. Không có Pháp (Dharma), sẽ không có hạnh
phúc nào có thể tồn tại. Nhưng nếu quà tặng của Pháp là món quà cao nhất trong
tất cả, thì mọi người phải có món quà đó của riêng minh để trao tặng cho người
khác. Và cách duy nhất để có được là thông qua Giác ngộ. Vì nguyên do nầy mà
Bồ-tát ước nguyện đạt được giác ngộ viên mãn, được như thế các ngài mới thực sự
có ích cho người khác. Và, dĩ nhiên, sự có ích của các ngài tăng trưởng khi các
ngài càng đến gần hơn sự Giác ngộ.
Thế thì Giác
ngộ nầy là gì, và bồ-đề, cái gì là mục tiêu tối hậu của công hạnh
Bồ-tát? Đó là sự hiểu biết thông suốt và viên mãn về bản chất và ý nghĩa cuộc
sống, năng lực để định hình chúng, phương pháp để chấm dứt chúng, và thực tại
siêu việt chúng. Truyền thống Ấn Độ hoàn toàn quen nhìn sự thành tựu cao nhất của
con người trong nhận thức nội quán về Thực tại (Reality) vốn siêu việt cõi giới
phù du nầy, và tất cả các loài chúng sinh đều ở trong đó. Nhưng lúc ấy–có một
vấn đề hạn định–người có nhận thức được về Thực tại nầy, vốn có nhiều điều thỏa
đáng hơn mọi thứ mà anh ta thấy chung quanh mình, sẽ muốn rút ra khỏi và tránh
xa sinh loại thân thiện với mình. Không còn tái sinh nữa, anh ta sẽ biến mất
trong thế giới. Đo lường mối quan tâm về thế giới bằng chiếc đũa thực tại chân
thật, anh ta không thể xem chúng một cách quá nghiêm túc. Nhân tính sẽ xuất
hiện với anh ta như là một khối phi thực thể thường chẳng phiền lòng điều gì
nói riêng. Đây là điểm quan trọng đặc biệt trong đạo Phật, thường luôn luôn dạy
rằng con người chẳng phải là con người ‘thực,’ mà chỉ là hình tượng mà chúng có
được, trong khi đó từ thực tế nghiêm ngặt, chúng vốn là vô tự thể (non-entities).
Các nhà Đại thừa đồng ý rằng không có nghĩa là tự động kế thừa mong muốn giúp
ích người khác. Trong số những người đã giác ngộ, được phân thành bốn hạng, hai
hạng xem việc giúp người khác là không đáng kể, trong khi hai hạng kia có làm.
Và mặc dù các nhà Đại thừa khẳng định rằng con người phải đạt đến mục tiêu bằng
nhiều phương tiện khác nhau, họ vẫn xem hạng người vị tha là siêu việt hơn
những hạng khác.
Những người
‘giác ngộ’ tự lợi trước hết là A-la-hán hay ‘Thanh văn–Disciples,’ người được
xem là đại biểu cho lý tưởng Tiểu thừa (Hīnayāna), và là những người lánh xa mối
quan hệ với thế giới, đắm mình trong sự giải thoát riêng tư của mình. Và thời
đó có Bích chi Phật (Pratyekabuddha). Các ngài khác với hàng A-la-hán, vì không
nhờ vào lời dạy của Đức Phật mà các ngài vẫn đạt được Giác ngộ, nhưng họ giữ sự
hiểu biết ấy cho riêng mình mà không truyền đạt cho người khác.
Hạng vị tha là
chư Phật và Bồ-tát. Trí huệ viên mãn là thuộc tính hàng đầu của chư Phật, là
điểm đặc biệt của tính giác ngộ của các ngài. Đức Phật là bản chất của đạo Phật
trong tất cả mọi hình tướng như là người sáng lập bảo đảm chân lý và niềm tin
vào giáo lý bởi thực tế ngài là bậc ‘giác ngộ viên mãn.’ Đó là luôn luôn nhất
trí rằng ngài biết mọi loài đều cần được cứu độ, chính ngài cũng như mọi loài
khác, do vậy nên trong những vấn đề tâm linh, ngài là người dẫn đường chắc thật
và không thể sai lầm. Đại thừa bấy giờ tuyên bố rằng ngài còn biết tất cả những
việc khác, rằng ngài là bậc nhất thiết trí trong ý nghĩa toàn diện của thuật
ngữ. Nhưng vì nó là một trong những tính chất riêng biệt của trí huệ Phật mà
trong đó chủ thể đồng nhất với đối tượng, thực tế ngài biết tất cả mọi hiện
tượng hiện hữu, hàm ý rằng ngài cũng là mọi hiện tượng đang hiện hữu. Theo đó,
Đức Phật trở nên đồng nhất hoặc là với Tuyệt đối, hoặc là với toàn thể hiện
hữu, với toàn thể các hiện tượng và trong mọi lúc. Đó chỉ vì ngài đã siêu xuất
từ mọi hiện tượng, Đức Phật đã xả ly hết mọi dấu tích của một cái ngã phân
biệt, và đã đạt đến cái ngã viên mãn và hoàn toàn tịch diệt.
Chúng ta có thể
tin chắc vào tính vô ngã của Đức Phật được nhận thức qua cách nầy. Nhưng khi
Đại thừa tiếp tục nói rằng Đức Phật–nhất thiết trí, như thật–cũng có nghĩa là hoàn
từ toàn bi, chúng ta vẫn còn một chút hoài nghi. Trong nỗ lực nhân cách hoá Đức
Phật, các nhà Đại thừa gọi ngài là ‘Cha’ của tất cả các loài không được cứu
giúp và đau khổ, nhưng thuộc tính nầy không bao giờ hoàn toàn có trong đời
sống. Matrceta, một nhà thơ Đại thừa vào thế kỷ thứ II đã có bải thơ nầy nói về
tâm từ bi của Đức Phật:
Điều gì tôi sẽ tán thán trước tiên, ngài hay tâm
đại từ , điều gì lưu giữ ngài
Quá lâu trong luân hồi, dù ngài biết rõ đó là
sai lầm?
Tâm từ của ngài, khiến thả lỏng dây cương, làm
cho ngài vượt qua thời gian
Trong đám đông, khi niềm an lạc của sự ẩn dật đã
quá nhiều cho vị giác của ngài.
(Buddhist Texts,
p. 192.)
Câu đầu của bài
thơ nầy nói đến Đức Phật khi ngài là một vị Bồ-tát, câu thứ nhì nói đến 45 năm
ngài giảng pháp trên thế gian sau khi ngài Giác ngộ. Đó là, tuy thế, tâm từ của
một Đức Phật sau khi ngài viên tịch, sau khi ngài nhập cứu cánh niết-bàn, điều
dường như luôn luôn vừa đủ để đáng tin. Ban đầu, trước cả truyền thống Đại
thừa, Đức Phật sau khi nhập niết-bàn được quan niệm như là hoàn toàn vắng bóng
hẳn ở thế gian nầy như mọi người đều nghĩ, và không ai còn quan tâm đến điều đó
nữa. Không có một lực lượng tài tình khéo léo nào có thể hoàn toàn dời hẳn đạo
Phật khỏi vị trí ban sơ, và thực sự ghép tâm từ vào cho Đức Phật, người đã ‘đi
xa.’ Trong khi có thể thấy được rằng việc giúp cho chúng sinh bằng quà tặng
Pháp vi diệu, cảm xúc của lòng từ phải thể hiện là xa lạ đối với ngài. Những
mối nghi luôn luôn tồn đọng trong điểm đó một phần là do bản thể siêu việt và
chân thực Bất khả tư nghì của tất cả những gì liên quan đến Đức Phật. Mọi điều
về ngài nằm bên ngoài tầm mức kinh nghiệm trực tiếp của riêng chúng ta. Vì
những con người ích kỷ và giới hạn như chúng ta, tâm bình thản và từ bi dường
như không tương hợp với nhau, và chúng ta có khả năng chiêm nghiệm về điều đó
trong tánh không (śūnyatā), lòng từ phải biến mất và trở nên không thể ứng dụng
được. Nhưng thế thì loại ánh sáng nào của lý lẽ chiếu vào vô ngã của chư Phật,
những người tương truyền là có mọi trạng thái viên mãn–điềm tĩnh thanh thản,
tâm từ vô hạn, và tánh không (śūnyatā) viên mãn? Từ phương diện thấp kém của
chúng ta, thế giới siêu việt của vô ngã tràn ngập với sự mâu thuẫn rành rành–nhưng
chúng ta quy trách nhiệm đó về ai?
Hàng Bồ-tát,
mặt khác, gần chúng ta hơn trong tâm tính của các ngài, và các ngài rất cẩn
trọng giữ việc tiếp cận với sự bất toàn bằng cách có cùng cảm xúc như con
người, dù khác biệt với họ, những cảm xúc nầy không ảnh hưởng cũng chẳng ô
nhiễm tâm các ngài. Không chỉ trở thành mọi thứ, Bồ-tát hoàn toàn không vượt ra
ngoài pham vi nhận thức, và chúng ta có thể đánh giá đúng rằng, trong khi suốt
đời chú ý vào sự siêu việt mục tiêu, họ lưu giữ suốt cuộc đấu tranh luôn luôn
biết về tính đoàn kết với tất cả sinh mạng ấy, tương ưng với câu nói nổi tiếng:
Có lẽ nào bạn hạnh phúc
khi mọi sinh linh phải khổ?
Bạn
được giải thoát khi nghe toàn thế giới kêu than?
(H. P. Blavatsky, The
Voice of Silence, p. 78.)
Nếu một vị
Bồ-tát muốn thành Phật, và nếu một Đức Phật được định nghĩa là tổng số của toàn
thể mọi điều, thì khoảng cách giữa một người nhất định (given person) và cảnh
giới của Phật quả sẽ dĩ nhiên là cảnh giới vô cùng lớn, gần như là vô hạn.
Trong một đời không thể nào có thể vượt qua. Vô số đời có thể được, nhiều kiếp
nhiều kiếp mới vượt qua được, trước khi một vị Bồ-tát đạt đến mục đích. Và lúc
ấy–và điều nầy có chút nghịch lý–chỉ một chướng ngại nhỏ tách biệt mình và
chúng ta từ Phật quả, và đó là niềm tin vào một bản ngã, tin rằng mình là một
cá thể riêng biệt, khuynh hướng thâm căn cố đế
đắm mình trong cái mà kinh điển gọi là ‘tôi làm’ và ‘cái của tôi làm.’
Để trừ bỏ chính mình là một vấn đề tối cao của hàng Bồ-tát, và thấy rằng điều
nầy không phải là chuyện dễ làm. Vị ấy dùng hai loại đo lường để tháo gỡ chướng
ngại này đối với Phật quả–tích cực hy sinh và phụng sự vị tha, dựa trên nhận
thức bằng nội quán vào vô tự tánh của ngã. Vấn đề sau là nhờ vào trí huệ, được
xác định như là khả năng thể nhập thực tại chân thật, thể nhập ‘tự thể’ của các
pháp, với điều mà chúng đang là và bằng chính nó, và duy trì sự cần thiết để
hiển bày sự rỗng lặng tột cùng của cái ngã riêng biệt. Và sự phối hợp nầy hành
động và nhận thức nầy luôn luôn đi cùng với nhau, và tương quan rất mật thiết
với nhau.
Sự hy sinh của
hàng Bồ-tát là đề tài của rất nhiều câu chuyện có tính giáo dục. Bằng lối ví
dụ, tôi sẽ kể lại chuyện Bồ-tát Thường đề (Ever-weeping) trước đã nói đến. Tôi
sẽ liên hệ câu chuyện trong vài chi tiết và rộng lớn hơn trong bản dịch, vì nó
có mọi đặc trưng tiêu chuẩn của một câu chuyện mang tư tưởng Đại thừa, và những
minh hoạ trạng thái tâm lý Đại thừa đến hoàn hảo. Câu chuyện kể cho chúng ta
biết Bồ-tát Thường đề đã tìm cầu Trí huệ Bát-nhã như thế nào, và cuối cùng,
ngài đã tìm được như thế nào, ‘vì ngài không bận tâm đến thân xác mình và không
để ý đến cuôc sống riêng của mình.’ Ngài đến gặp Bồ-tát Dharmodgata, người đã
trả lời mọi câu hỏi của ngài, nhưng ngài cảm thấy rằng ‘có lẽ là không hợp lẽ
khi đến với Bồ-tát bằng hai tay không.’ Thế nên Thường đề quyết định bán mình,
ngài đến chợ, và rao, ‘Ai mua người? Ai muốn mua người?’ Nhưng Ma vương, ác ma
sợ Thường đề, nếu ngài thành công trong việc bán mình cầu pháp, vì yêu quý pháp
mà làm như vậy để kính thờ pháp,’ lúc đó nhờ vậy ngài
được Giác ngộ, và độ thoát mình và mọi người ra khỏi ảnh hưởng của Ma vương. Thế nên Ma vương khiến
họ biến mất để chẳng có ai nghe hay thấy được Bồ-tát. Lúc ấy Đế thích (Śakra),
tổng quản các thiên thần, quyết định thử Thường đề, biến thành người trai trẻ
nói với Thường đề rằng cha anh ta cần một người hy sinh. ‘Tôi cần một trái tim
người, máu và tuỷ xương.’ Thường đề ‘tâm sẵn sàng với niềm vui’ đồng ý và nói,
‘Tôi sẽ tặng cho anh thân mình, vì anh cần nó!’ Rồi ngài lấy thanh gươm nhọn,
cắt cánh tay phải, khiến cho máu chảy thành dòng. Ngài cắt đùi phải, cắt thịt
ra, và đứng dạng chân trên bờ tường để lóc xương.’ Vua trời Đế thích ‘lúc đó thu
hình thanh niên trẻ lại, và bằng tướng Vua trời của mình đến trước Thường đề,’
tán thán tâm kiên định của ngài và yêu cầu ngài chọn một ân huệ. Thường đề yêu
cầu được ban cho ‘pháp tối thượng của Đức Phật,’ nhưng Vua trời Đế thích phải
thừa nhận rằng điều nầy vượt trên sức lực của mình, và cầu xin ngài chọn yêu
cầu khác. Thường đề đáp: ‘Đừng bận tâm về việc thương tổn thân tôi! Bây giờ tôi
sẽ ráp lại toàn thân bằng năng lực mầu nhiệm của tâm tìm cầu Chân lý của mình.
Nếu đúng thật là tôi đạt được giác ngộ viên mãn, nếu đúng thật chư Phật biết
quyết tâm không gì lay chuyển nổi của tôi, thì thân nầy sẽ hoàn lại như cũ!’
‘Chỉ trong phút chốc, nhờ năng lực chư Phật và nhờ vào tâm dũng mãnh hoàn toàn
thanh tịnh của Bồ-tát, thân thể ngài hoàn lại nguyên ven như xưa, khoẻ mạnh và
nguyên toàn.’ Rồi câu chuyện tiếp tục kể bằng cách nào mà Thường đề được tháp
tùng bởi con gái người thương buôn và 500 thị nữ theo hầu đến yết kiến Bồ-tát Dharmodgata,
ngài đang sống trong giàu sang và tráng lệ; làm sao mà ngài nghe được pháp,
ngài đã bỏ 7 năm để trầm tư như thế nào; và sau đó, khi ngài gặp được Bồ-tát Dharmodgata
một lần, ngài hiểu ra rằng, ‘Ác ma đã làm biến mất không còn chút nước,’ nó làm
vậy để ngăn không cho ‘bụi rơi xuống thân Bồ-tát Dharmodgata,’ chúng phải rải
mưa rào trên mặt đất bằng máu; và như một phần thưởng, Thường đề có được hằng
triệu lần nhập định, ‘thấy được chư Phật và Hiền thánh trong khắp 10 phương,
khắp vô biên thế giới vây quanh bởi chúng hội Bồ-tát tuỳ tùng của các ngài.’ Và
từ đó trở đi, bất kỳ ngài tái sanh nơi đâu, luôn luôn trong cùng sự hiện hữu và trong cảnh giới chư Phật. (Bát thiên tụng
Bát-nhã ba-la-mật-đa, R. Mitra, biên tập, năm 1888, phẩm. 30 và 31).
Câu chuyện nầy
không phải là theo khẩu vị của thời đại bướng bỉnh của chúng ta, họ sẽ lên án
rằng nó có chút hoang đường, hết sức trẻ con và ra ngoài tiếp cận của xã hội hiện thực. Quả thực, đó thuần
tuý là câu chuyện thần kỳ, biểu lộ hoàn toàn sự bất chấp ý nghĩa nền tảng và
thế giới phàm tình nầy.
Mọi chi tiết trong
chuyện đó đều không thuộc về thế giới nầy, việc khát ngưỡng quá
mức về Pháp và những biểu tượng của Pháp, sự can thiệp những sinh thể huyền
thoại như Ma vương và Đế thích, và còn phần lớn những niềm tin ngây thơ vào sức
mạnh Chân lý. Về khuynh hướng tâm linh, tuy thế, nó minh hoạ sự kiện không thể
lờ đi được điều kiện cho sự đạt được trí huệ.
Sự thống nhất
từ bi và trí huệ được thể hiện bằng lục độ, hay ba-la-mật-đa (pāramitā),
‘phương tiện nhờ đó chúng ta vượt qua bờ bên kia.’ Một người trở thành Bồ-tát
khi họ trước hết phát nguyện đạt được giác ngộ tối thượng vì lợi ích cho toàn
thể chúng sinh. Sau đó, cho đến khi thành Phật, anh ta trải qua nhiều kiếp
trong khi thực hành Lục độ ba-la-mật-đa. Rất quan trọng trong ý niệm nầy là Đại
thừa thường tự nhận mình là ‘Cỗ xe của Lục độ ba-la-mật-đa.’ Lục độ là: bố thí,
trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn thiền định và trí huệ ba-la-mật-đa. Chính những
thuật ngữ không thực sự tự giải thích được, nên cần phải có thêm vài dẫn giải.
Trước hết, một
vị Bồ-tát phải tu tập tâm bao dung, với mọi thứ ngài có được, tài sản,
gia đình, và thậm chí cả thân mạng. Đạo đức có nghĩa là giữ giới luật, và
Bồ-tát thà từ bỏ thân mạng mình hơn là vi phạm giới luật bằng nói dối, sát hại,
trộm cắp. Đại thừa, khác biệt với Tiểu thừa, có nhiều điều để nói về kham nhẫn, nhưng từ được dùng có ý nghĩa rộng
hơn chữ chúng ta thường dùng. ‘Kham nhẫn’ bao hàm nghĩa đạo đức lẫn lý trí. Về
mặt đạo đéc, nó có nghĩa là nhẫn chịu mọi khổ não cũng như mọi hành vi xấu ác
của người khác, không bao giờ cảm thấy có gì giận dữ, ghét bỏ hay bất bình. Về
mặt tri thức, có nghĩa là nhẫn thọ, nhận biết mọi cảm xúc (emotional acceptance),
trước khi chúng ta hiểu biết đúng đắn về nó, về cái càng không thể chấp nhận
được, không thể tin được và khó có thể xảy ra của tinh thần bản thể luận (ontology)
Đại thừa, như vô tự thể của các pháp, điều để lại cho chúng ta chẳng có gì
nhiều để sống với nó. Viên mãn trong Tinh tấn ba-la-mật-đa, Bồ-tát mặc dù sự
chán nản và nhiều chướng ngại, nhưng tính kiên trì không biết mỏi mệt trong
công việc, không bao giờ than vãn thất vọng hay mất tinh thần. Thêm vào đó, nghị
lực của các ngài rất lớn để các ngài không tránh né công việc, dù khó khăn đến
mức nào, dù không thể làm được.
Chúng sinh dù
nhiều đến chừng nào, tôi nguyện cứu độ hết!
Phiền não dù
vô tận đến cỡ nào, tôi nguyện đều đoạn trừ hết!
Pháp môn
nhiều đến chừng nào, tôi nguyện đều tu học hết!
Phật đạo
không có gì sánh bằng, tôi nguyện chứng dạt được!
(Theo D. T. Suzuki, Manual of Zen Buddhism,
1935, p. 4.)
Tu tập định
ba-la-mật khiến cho Bồ-tát có được sự thành thục trong chiêm nghiệm và
thiền định ‘nhiều như cát sông Hằng.’ Những điều nầy hiển bày cho Bồ-tát khía
cạnh mới của thực tại không bị nghi ngờ của hạng bình dân phàm tình, và cùng
lúc thuyết phục Bồ-tát về sự thiếu vắng và không thực của mọi thứ chỉ là kinh
nghiệm từ các giác quan. Trí huệ ba-la-mật-đa rốt ráo là khả năng nhận biết những
sở hữu cốt yếu của mọi tiến trình và hiện tượng, mối liên hệ hỗ tương giữa
chúng, điều kiện khiến cho chúng sinh khởi và hoại diệt, và tính bất thực tuyệt
đối trong hiện hữu của chúng. Và đỉnh cao nhất là dẫn ngay đến tánh không
(śūnyatā), vốn là một và chính là Thực tại.
Sáu
ba-la-mật-đa được chi phối bởi trí huệ ba-la-mật-đa, chỉ riêng nó đủ tạo nên các yếu tố khác thành
ba-la-mật-đa, hoặc là những công hạnh thực sự dẫn đến Siêu việt. Như người mù không thể tìm ra
đường thì không thể vào thành phố được. Cho nên chỉ có trí huệ ba-la-mật-đa mới
truyền đạt cho các ba-la-mật-đa khác một ‘bộ phận của cái thấy để cho phép
chúng bước lên con đường đến nhất thiết trí và đạt được nhất thiết trí.’ (Aṣṭasāhasrikā
VII 173). Vấn đề không phải chỉ có những gì Bồ-tát làm, mà là tinh thần
trong đó các ngài thi tác. Khi bố thí, ngài thường được khuyên răn rằng không
có niệm tưởng về những gì mình cho, không để ý đến người mình cho, và, chủ yếu
nhất là giữ tâm không khởi niệm rằng chính mình là người cho. Tin chắc rằng với
trí huệ ba-la-mật-đa để nhìn tính vô thực thể tuyệt đối, Bồ-tát sẽ không còn ý
tưởng về mình, không còn ý tưởng về người, và không còn ý tưởng về vật bố thí.’
(Buddhist Texts, no. 131). Tương tự như vậy, không có năng lực trí huệ mạnh mẽ thì một số các đức
tính nầy, như nhẫn nhục, không thể nào được tu tập đến chỗ viên mãn. Trong Kinh
Kim Cang, Đức Phật kể lại trường hợp khi ngài giữ tâm không bối rối khi vua
Ca-lợi (King of Kalinga) cắt xẻo thân ngài từng miếng thịt:
‘Chính lúc ấy Như Lai đã không khởi ngã tưởng,
chúng sinh tưởng, sĩ phu tưởng (thọ giả– jiva saṃjñā) , bổ-đặc-già-la tưởng,
mà cũng không khởi thụ tưởng hoặc phi thụ tưởng nào. Vì sao? Tu-bồ-đề, nếu lúc
ấy Như Lai phát sinh các tưởng như vậy thì lúc đó Như Lai đã phát khởi tâm sân
hận. ’
(Kinh Kim Cang–Vajracchedikā prajñāpāramitā, 14e.)
Chính tâm từ là
khả năng cần thiết cho ba tầng bực của ba-la-mật-đa: trước hết Bồ-tát thương
xót tất cả chúng sinh; rồi Bồ-tát nhận ra rằng chúng thực chất là không tồn
tại, và hướng tâm từ của ngài vào những sự kiện không bị ảnh hưởng bởi tình cảm
con người vốn tràn ngập thế giới, cuối cùng, tâm từ vận hành trong cảnh giới
mênh mông của tánh không (śūnyatā). Hai giai đoạn sau không được chứng thực bởi
kinh nghiệm hằng ngày của chúng ta. Tuy nhiên, không cần thiết phải ngớ ngẩn
khi nói về lòng từ ‘không có đối tượng–vô duyên từ,’ vì chúng ta biết về
các cảm xúc khác vốn sinh khởi bên trong mà không có sự kích thích từ đối tượng
bên ngoài. Dưới ảnh hưởng của sự gia tăng chất adrenalin,[179] con người rất dễ nổi giận, và lúc đó,
anh ta sẽ tìm chung qaunh mình một vật để trút sự tức giận ra. Một người phụ nữ
lớn tuổi không chồng thường có đầy tình thương và dễ xúc động hơn là cô ta biết
điều gì mình nên làm, và theo đó, cô ta sẽ không thanh thản cho đến khi nào cô
ta tìm thấy có người nào để cô ta ban ân huệ đó, dù đó chỉ là con mèo hay con
vẹt. Tương tự, tâm từ của Bồ-tát phát xuất từ sâu kín trong tâm ngài, và từ đó,
trải rộng ra khắp nơi mà ngài vốn đã biết đó là huyễn ảo.
Đại thừa phân biệt rõ Mười tiến trình (Thập
địa–ten stages), qua đó, một Bồ-tát phải trải qua trên con đường đến Phật
quả. Đây là một phần đóng góp đặc biệt của Đại thừa được chín muồi dần qua hàng
thế kỷ, lập thành định hình cuối cùng trước năm 300 stl. trong Kinh Thập địa
(Sütra on the Ten Stages).[180] Những giai vị nầy chỉ cho nhân duyên rất
thù thắng, đối với Long Thụ, nhà tư tưởng vĩ đại của Đại thừa, chính là Bồ-tát
sơ địa. Sáu giai vị đầu tương ưng với sáu ba-la-mật-đa, và với địa thứ sáu, (Hiện
tiền địa (現 前 地; abhimukhī-bhūmi),[181] Bồ-tát qua chứng ngộ về tánh không
(śūnyatā), trở nên tự mình ‘đối mặt’ với Thực tại.
Ở giai vị đó,
ngài được quyền nhập niết-bàn, nhưng tự nguyện từ bỏ điều ấy. Từ bây giờ trở
đi, ngài luôn luôn tái sinh một cách kỳ diệu, và có nhiều phẩm tính siêu phàm
làm cho Bồ-tát có đủ phẩm chất trở thành một bậc cứu độ cho người khác, và nâng
Bồ-tát lên vị trí của Bồ-tát pháp thân (celestial being: thiên thân)
Trong giai vị
thứ 7 (Viễn hành địa), Bồ-tát đạt đến ‘uy quyền tự tại’ trên thế gian, không có
gì có thể ngăn trở ngài không lâu nữa sẽ thành Phật, ngài bây giờ là một ‘Pháp
vương tử’ (Crown Prince of the Dharma), và biểu tượng của ngài trong nghệ thuật
thể hiện ngài như là nhân vật sang trọng trong vương quyền. Hiển nhiên Bồ-tát ở
4 giai vị sau cùng khác hẳn các Bồ-tát 6 giai vị đầu. Từ nay trở đi tôi sẽ gọi
các ngài là Bồ-tát pháp thân (celestial Bodhisattvas)
Giáo lý thần thoại (Mythological
Doctrines)
Bồ-tát pháp
thân (celestial Bodhisattvas) rất thích hợp để trở thành đối tượng của sự sùng
kính tín ngưỡng, và chẳng bao lâu niềm tin tăng trưởng hướng về các ngài. Nhiều
vị đã có tên gọi sẵn và kế thừa cả thuộc tính tâm linh lẫn thuộc tính hữu hình.
Chúng ta có Bồ-tát Quán Thế Âm, một vị Bồ-tát giai vị thứ chín (Thiện
huệ địa (善
慧
地;
sādhumatī-bhūmi), người hoạt dụng bởi lòng từ bi, tay cầm hoa sen, và lòng bao
dung cứu giúp mọi chúng sinh đang trong cơn tuyệt vọng, được trợ giúp bởi năng lực tuyệt đối như của thần Prote[182] biến hoá thành nhiều thân tướng như ngài
muốn. Có Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, người trội vượt về trí huệ, tay cầm kiếm, và
ban phát trí huệ cho những ai cầu đến ngài. Có Bồ-tát Di-lặc, là Đức Phật tương
lai, bây giờ đang ở trên cung trời Đâu-suất (Tuṣita), người biểu tượng cho tâm
từ, cầm bầu đựng linh đơn bất tử, và dẫn dắt mọi người đến Giác ngộ trong tương
lai. Có Địa tạng Bồ-tát (Kshitigarbha), giáo chủ cõi âm ty, cầm tích trượng và
trông coi sự lợi lạc cho người chết, đặc
biệt là trong địa ngục. Và Bồ-tát Phổ Hiền (Samantabhadra) cỡi trên voi trắng,
giải trừ bùa mê, ngăn ngừa mọi hiểm nạn.
Quan niệm về
các vị Bồ-tát nầy thường được thể hiện ở nước ngoài, không phải trong Ấn Độ, và
một cách đặc biệt là ảnh hưởng từ Iran. Phẩm 24 trong kinh Pháp Hoa, nói đến
Bồ-tát Quán Thế Âm, thể hiện những điểm khác thường đối chiếu với những đọan văn
khác trong Avesta. [183] Bồ-tát Quán Thế Âm mang trên mũ miện
hình tượng Đức Phật A-di-đà, tổ phụ tâm linh của ngài. Tương tự như sự bố trí
có thể quán sát được trên khăn bịt đầu của các Cha xứ Palmyra và của các vị Đại
nữ thần vùng Phrygia. Bồ-tát Di-lặc có nhiều điểm đối chiếu với Mithra. Danh
hiệu củ ngài là A-dật-đa (a-jita) có
nghĩa là ‘người không bị khuất phục), giống như Mithras trong truyền thống
huyền thoại La mã được gọi là in-victus.
Các vị Bồ-tát
đều xứng đáng được cung kính thờ phượng như Đức Phật, và một số nhà Đại thừa
cho rằng Bồ-tát còn xứng đáng hơn thế nữa. Trong kinh Pháp Hoa, được biết tôn thờ Bồ-tát Quán Thế Âm cũng có quả báo
giống như thờ phụng vô lượng chư Phật. (Saddharma Puṅdarikā , p. 364).
Và nơi khác,
‘Thật vậy, Này, Ca-diếp, như người thờ phụng trăng non thì không bỏ qua vầng
trăng tròn, cũng giống như vầy, người nào tin ở ta thì nên kính trọng các vị
Bồ-tát và không quên các đức Như Lai.’ Hay là, ‘Từ Đức Phật, chỉ lưu xuất Thanh
văn và Bích chi Phật (p. 60), nhưng từ Bồ-tát, chính Đức Phật viên mãn tự xuất
sinh.’
Sự phát triển tính
chất huyền thoại của hàng Bồ-tát được tán trợ và thậm chí được đề xuất bởi chư
Phật huyền thọai. Phương diện nầy của Đại thừa dõi ngược lại vào thế kỷ Đức
Phật nhập niết-bàn. Nó hình thành trong Đại chúng bộ, phái chính trong cuộc
tranh luận với trường phái gọi là Thượng toạ bộ (Sthaviras; Elders), tự hào
mình nhiều tuổi hơn và nguyên thuỷ hơn. Đại
chúng bộ là nhóm người dân chủ và phổ biến hơn, qua sự khát ngưỡng phổ quát ấy
mà xuất sinh trong đạo Phật. Ý niệm mà họ hình thành từ Đức Phật là điểm quan
trọng chính yếu, nếu họ không hiểu Đại thừa, thì không thể nào hiểu rõ đúng giá
trị luận lý đằng sau nó.
Ý niệm về ‘Đức
Phật’ từ rất sớm đã bao hàm tính nhị nguyên để trở thành điểm xuất phát cho sự phát
triển có ảnh hưởng sâu rộng sau nầy. Thuật ngữ ‘Phật– Buddha’ chính nó không phải
là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu, hay một tước hiệu, có nghĩa là ‘Người
giác ngộ.’ Chỉ chi tình trạng của một người hoàn toàn không còn chướng ngại
dòng chảy nguồn lực tâm linh của pháp (dharma). Tên riêng của Đức Phật lịch sử
là Cồ-đàm (Gautama; p: Gotama) hay Tất-đạt-đa (Siddhartha; p: Siddhattha), hay
là sau tên gọi bộ tộc của ngài, ngài thường được gọi là Thích-ca Mâu-ni (Śākyamuni).
Do vậy, một mặt Đức Phật là một con người lịch sử, và mặt khác là một dòng về
giáo lý tâm linh tức là pháp (dharma). Nhị nguyên tính nầy là thông thường trong
tính đích xác của những bậc thượng thủ tôn giáo Á châu. Những năm gần đây,
chúng tôi gặp lại điều ấy trong Karamchand Gandhi, người cũng là một Mahatma, là
‘Bậc có linh hồn vĩ đại.’ Thực tế những gì có thể quán sát được về ảnh hưởng
lịch sử về công hạnh của ngài vẫn còn là huyền thọai đối với những gì không thể
trông thấy được qua tấm mạng che mặt riêng tư của Gandhi cho đến nguồn lực tâm
linh vốn vận hành thông qua ông ta, và không hiểu được rằng điểm quan trọng của
ông nằm trong khía cạnh Mahatma của ông, vì rằng tính cách của Gandhi chỉ là một vật chứa.
Theo cách nầy,
con người gọi là Cồ-đàm hay Thích-ca Mâu-ni cùng tồn tại theo nguyên lý tâm linh thuộc
Phật quả, vốn được gọi ‘Như Lai’ hoặc
‘Pháp thân’ hay ‘Phật tánh,’ dù đạo Phật xem mối quan hệ chính xác giữa phương
diện cá nhân và tâm linh của hiện hữu là không thể nào xác định được. Và trong
mọi lúc, người Phật tử đều kiên quyết chống lại khuynh hướng bất biến về
tinh thần (unregenerate) để đặt niềm tin của mình vào trong một nhân vật
sống, và chống lại việc thu nhỏ tầm quan trọng
thể chất thực tế hiện hữu của Đức Phật. Đó chính là Đức Phật mà trong
kinh điển Tiểu thừa được ghi nhận khi ngài nói với Vakkali:
“Để làm gì, này Vakkali! Để thấy cái thân ghê
tởm của Như Lai. Ai thấy được Pháp, người ấy thấy được Như Lai; người nào thấy
được Như Lai, người ấy thấy được Pháp.’[184]
(BuddhisTexts, no.103).
Trong truyền
thống Tiểu thừa, Đại chúng bộ bây giờ đã được khai mở một tiến trình, hằng thế
kỷ thứ khi sinh khởi Đại thừa, qua đó Đức Phật lịch sử càng trở nên ít quan
trọng. Họ xem mọi điều cá nhân, phàm tục, tạm thời và mang tính lịch sử đều là
nằm ngoài Đức Phật đích thực. Chính ngài là siêu việt, hoàn toàn xuất thế gian,
không còn điều gì bất toàn và ô nhiễm bất cứ thứ gì, là nhất thiết trí, toàn
năng, vô cùng và thường hằng, chưa từng bao giờ ra khỏi định, không bao giờ mê hay
ngủ. Theo cách này, Đức Phật trở nên đối tượng lý tưởng cho niềm tin tôn giáo.
Vì đối với Đức Phật lịch sử, người đến trần gian vào năm 500 ttl., ngài là một
sáng tạo huyền thoại của Đức Phật siêu việt, một nhân vật tưởng tượng được ngài
gởi đến để thị hiện trên trần gian và dạy đạo cho cư dân ở đó. Trong khi một
mặt dốc lòng vào việc tuyên dương thế giới tương lai của Đức Phật, Đại chúng bộ
cùng lúc nỗ lực gia tăng mức độ hữu ích cho hàng phàm phu. Đức Phật đã không tịch
diệt hẳn trong niết-bàn, mà với lòng từ vô hạn như thọ mạng dài lâu của ngài, ngài
sẽ ở lại đến tận cùng thời gian để gợi lên mọi sắc thái để giúp mọi loài hữu
tình nhiều dạng khác nhau. Ảnh hưởng của
ngài không giới hạn trong số ít những người chỉ có thể hiểu được giáo lý thâm
thuý của ngài, mà như là một Bồ-tát, thậm chí ngài phát nguyện sinh trong ‘cảnh
giới khổ nghịch,’ tuỳ nguyện trở thành loài vật, hay ma quỷ, hay chúng sinh
trong địa ngục, và làm phước lợi cho những chúng sinh bất hạnh đang sống trong
những nơi mà giáo pháp trí huệ phải rơi vào trong lỗ tai điếc. Chẳng phải chư
Phật y cứ trên thế giới nầy một mình, các ngài hiện hữu khắp các cõi giới, và
được thấy ở khắp mọi nơi, trong tất cả các thế giới hệ.
Đại thừa tiếp
nhận vấn đề Phật thân luận (Buddhology) nầy trong trong toàn cảnh của nó
Đức Phật lịch
sử mờ nhạt, để lại Đức Phật là hiện thân của Pháp (Dharma), như là thực tại duy
nhất.
Trong Kinh Kim
Cang có bài kệ nổi bật:
Ai
thấy Như Lai qua thân sắc, quy y Như Lai vì thanh âm–những người ấy vướng vào
tà đạo, họ sẽ không thấy được Như Lai .
Nên
quán sát chư Phật từ sự tương ưng của Pháp, Pháp thân chính là Đạo sư. Pháp
tánh không thể được nhận thức, mà cũng không có khả năng nhận thức.
Chính Đức Phật
đã nói với chúng ta trong kinh Pháp Hoa:
‘Các ông lắng nghe, sức bí mật thần thông của Như
Lai, tất cả chúng sinh trong các loài đều cho rằng Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra
khỏi cung họ Thích, cách thành Gaya chẳng bao xa, nay đã chứng đạt Vô thượng
chánh đẳng chánh giác. Thế nhưng thật ra
khi Như Lai thành Phật đến nay, đã vô lượng vô trăm ngàn câu chi kiếp lâu xa
đến nay ta đã chứng đắc giác ngộ viên mãn. Như Lai đã hoàn toàn giác ngộ từ rất
lâu xa, Như Lai có thọ mạng vô lượng, dài lâu vô cùng.’[186] (Buddhist Texts,
pp. 10, 142).
Như sự thể hiện
của một điển hình, Đức Phật lịch sử không phải là một hiện tượng độc nhất, mà
chỉ là một trong hằng sa chư Phật thị hiện trong thế gian suốt hằng thế kỷ.
Kiến thức về Đức Phật-phi-lịch sử dường như phát triển theo dòng thời gian. Ban
đầu có bảy vị,[187] rồi chúng ta nghe đến 24 vị, rồi số
lượng tăng dần. Đại thừa đi xa hơn và an trú các cõi trời cùng chư Phật. Đông phương
với Đức Phật Bất động (Askhobhya), phương Tây Đức Phật A-di-đà (Vô lượng quang–Amitabha),
tín ngưỡng này vay mượn từ nhiều phép thờ cúng mặt trời của dân Iran, có lẽ
phát xuất từ đế quốc Qúy Sương[188] (Kushana) ở vùng biên giới giữa Ấn Độ và
Iran, được truyền sang Trung Hoa đầu
tiên vào khoảng từ năm 148 đến 170 stl. do Hoàng tử xứ Iran là Arsacid Ngan
che-kao. Các Đức Phật phổ biến khác là ‘Đức Phật Dược sư’ (Buddha of Healing;
s: Bhaishajyaguru), cũng như Đức Phật A-di-đà, ngài có ‘thọ mạng vô lượng,’
ngài giống hệt như Zurvan i Akanarak (e: Unlimited Time) của người Iran. Phần
lớn của vô số chư Phật nầy đều được kế thừa một ‘cõi nước’ hay ‘cảnh giới’ hay
‘thế giới thần thọai’ của riêng của các ngài, một thế giới mà không phải ở cõi
giới nầy, một nơi ‘thanh tịnh’ vì lìa hết mọi tội lỗi và các cảnh giới thống
khổ. Về sau Tantra (Mật giáo) thêm vào nhiều vị Phật, Chẳng hạn,
Tỳ-lô-giá-na (Vairocana), Kim cang tát đoả (Vajrasattva). Kim cang trì (Vajradhara),
v.v... Ngay cả đối tượng sùng kính là Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cũng rút lại
trong nền tảng, và đôi khi ngài được giảm trừ đến tình trạng chỉ là thân giả
huyễn của một Đức Phật pháp thân (celestial Buddha), như Tỳ-lô-giá-na.
Khoảng vào năm 300
stl. Phật thân luận (Buddhology) của Đại thừa sau cùng định hình giáo lý về Tam
thân (Three Bodies).[189] Một Đức Phật hiện hữu trong ba tầng bậc:
3.
Pháp thân (dharma-kāya).
Pháp thân là
Đức Phật được nhìn như là Tuyệt đối. Thân huyễn ảo, thân hoá hiện (Hoá thân; nirmāṇa-kāya)
là thân mà mọi người đều có thể nhìn thấy vào những thời điểm nhất định, nói
cách khác, đó là Đức Phật lịch sử. Trong thế kỷ thứ XV, giáo lý về ‘huyễn thân’
nầy tiếp nhận ở Tây Tạng một hình thái có đôi chút khuấy động tưởng tượng của phương
Tây, nơi mọi người đã nghe về Đức Đức Đạt-lại Lat-ma[192] và ‘Phật sống–Living Buddhas’ (Tulkus =
sprul-sku = nirmāṇa-kāya). Mọi người thường hiểu lầm học thuyết đằng sau
vấn đề nầy vì họ không để ý đến sự khác biệt chủ yếu giữa con người bình thường
và bậc thánh đã thành tựu tính cách của họ khi thị hiện trên thế gian. Một con
người bình thường là ai đó trước khi sinh ra ở đây, mà sự tái sinh của họ đã được
quyết định bởi nghiệp lực bất tận của anh ta, và anh ta bị đẩy đến nơi anh ta
ít nhiều ngược với ý nguyện của mình. Không có sự ràng buộc như vậy nơi Bồ-tát
và Phật pháp thân (celestial) đối với thế gian nầy, nơi các ngài có thể hoàn
toàn dễ dàng bỏ lại đằng sau, nếu tâm từ bi của các ngài cho phép mình làm như
vậy. Bấy giờ đó là truyền thống hoàn toàn cổ xưa, các bậc thánh hoàn hảo có thể
hoá thành thân huyễn ảo với toàn bộ ý định và mục đích là để không khác biệt
với thân người bình thường, và qua đó , các ngài sư rdụng như là một hình rối
để giúp đỡ và chuyển hoá người khác. Những điều nầy không phải là vấn đề ‘tái
sinh/hiện thân’ của bậc thánh, mà là sự sáng tạọ tự tại từ năng lực siêu nhiên
của các ngài, vốn đưa ra để thi tác công hạnh của mình, trong khi chính ngài
vẫn ở trong cảnh giới không ràng buộc. Người ta có lẽ thích đáng khi nói về ‘sở
hữu,’ và ý tưởng không giống như thánh St. Paul tuyên bố rằng không phải ngài nói
mà chính là Christ đang ngự trong thân ngài (Galatians ii, 20). Thế nên
không phải Tulku là người thi tác, mà năng lực tâm linh của ngài điều khiển
ngài.
Đây là tất cả thuộc tính chung đối với mọi
người Phật tử. Sự cách tân của Lạt-ma giáo (Lamaism) trong thế kỷ thứ XV cốt
ở giáo lý:
(a) chư Phật và Bồ-tát sẽ phái đến một nơi
nào đó bằng vô số huyễn thân để thi tác như là bậc Tăng sĩ lãnh đạo quốc gia (priestly
rulers) của vùng đó. Theo cách nầy, Bồ-tát Quán Thế Âm sẽ hiện thân13 lần như
là người trị vì Lhasa, ngài Di-lặc (Maitreya) hiện thân bảy lần ở Urga, v.v...
(b) Họ
tuyên bố rằng có thể phát hiện nguyên lý tâm linh của người lãnh đạo trước đây
trong thân của một đưa bé được nhận biết vào 49 ngày sau sự viên tịch của vị
ấy. Được điều khiển bởi các vị Tulku chọn lựa bởi các vị tăng thượng thủ trên
nền tảng nguyên tắc kỹ lưỡng cho phép Hội đồng Nghi lễ (Congregation of Rites)
phân biệt chân xác với những thần biến giả mạo, là khía cạnh đặc biệt của
Lạt-ma giáo vào 450 năm gần đây, dù trong tình trạng của bậc lãnh đạo tối cao,
Đức Đạt-lại Lat-ma, đã được tôi luyện từ
những cuộc mưu sát có tính toán.
Tất cả các điều
nầy hoàn toàn đơn giản và trực tiếp. Dạng tương tự không thể được xem là cái
thứ hai hay là thân ‘cộng thông.’ Dù ý nghĩa chính xác của thuật ngữ còn bị
nghi ngờ, và ‘Thụ dụng thân’ có thể cách dịch hay hơn. Đó là một thân chói lọi
siêu nhiên, trong đó Đức Phật thị hiện thành bậc siêu nhiên và thành Bồ-tát
pháp thân trong một cảnh giới xuất trần, nơi đó các ngài tạo lập công đức và
giảng dạy giáo pháp cho họ, trong khi phát khởi niềm vui, niềm hoan hỷ, và từ
bi đến cho họ. Chúng ta phải để lại vấn
đề nầy ở đây, nhưng có thể nói thêm rằng thân được tuyên dương nầy đã cung ứng
nhiều nhu cầu chứng minh cho tạng Kinh điển mới của Đại thừa, điều có thể dõi
ngược lại nơi hoạt dụng của nó.
Phương tiện thiện xảo
Và rồi, nếu sự
thật được nói ra, mọi điều chúng ta sẽ nói
chừng nào nó chưa là sự thực, nhưng nó là một phần ảo ảnh mênh mông của
thế giới huyễn tượng. Trong thực tại chân thực thì không có chư Phật, không có
Bồ-tát, không có ba-la-mật-đa, không có giai vị, không có thiên đường–không tất
cả. Tất cả những ý niệm nầy không liên
quan đến chút nào đến thực tế ở đó, và liên quan đến một thế giới chỉ là ảo
ảnh. Đó chỉ là phương tiện, sự nhượng bộ đối với vô số điều không biết, là cấu trúc giả tạm của tư duy, vốn trở thành
giả huyễn theo sau đáp ứng cho mục đích. Đối với Đại thừa, đó là ‘cỗ xe,’ với ý
định là để đưa mọi người đi qua đến bờ giải thoát. Khi mục tiêu Bờ bên kia đã
đạt được, cỗ xe ấy có thể được loại bỏ một cách an toàn. Ai còn nghĩ đến việc
mang một chiếc bè bên mình khi mình đã sang được bên kia bờ?[193]
Trong Bát-nhã
ba-la-mật-đa (Perfection of Wisdom ), chư thiên kinh ngạc hỏi Trưởng lão
Tu-bồ-đề:
“Đại
đức Tu-bồ-đề, ngài cũng nói Niết-bàn như huyễn, như mộng chăng?” và họ nhận
được câu trả lời: “Này các Thiên tử, nếu có pháp nào cao hơn Niết-bàn, tôi cũng
nói đó như huyễn, như mộng. Huyễn, mộng và Niết-bàn, không hai, không khác.’[194] (Buddhist Texts,
no. 165).
Niết-bàn, là
Thực tại chân thật, là duy nhất, không có cái thứ hai. Tất cả mọi thứ đa thù,
phân biệt, nhị nguyên đều là dấu hiệu của hư vọng. Mọi thứ đều lưu xuất từ Một,
còn gọi là ‘không–Emptiness’ hay ‘Như–Suchness,’ là lìa hẳn hiện hữu có thực,
và bất kỳ điều có thể nói được về nó đều rốt ráo là không thực, hư vọng và
không có hiệu lực, dù có khi có thể chấp nhận được nếu sự cứu độ chúng sinh cần
đến nó. Khả năng cấu trúc những bày tỏ có ích và hành xử tương hợp với nhu cầu
của con người, phát xuất từ một khả năng gọi là ‘phương tiện thiện xảo’ vốn
dành cho hàng Bồ-tát khá muộn, hàng Bồ-tát đệ thất địa (Viễn hành địa), sau khi
‘trí huệ ba-la-mật-đa’ đã hoàn toàn hiển bày cho ngài thể tính tánh không
(śūnyatā) của các pháp.
‘Phương tiện
thiện xảo’ làm cho các nhà Đại thừa có nhiều ảnh hưởng như việc truyền bá giáo
pháp bên ngoài Ấn Độ hơn là các nhà Tiểu thừa. Không phải về sau thiếu những
nhà truyền pháp nhiệt tâm. Tuy nhiên, họ mắc phải cố tật là thích giải thích
kinh điển cứng nhắc theo từng chữ hơn, trong khi các nhà Đại thừa nêu ra nhiều phương
thức phóng khoáng hơn trong việc thuyên giải văn tự kinh điển. Điều nầy ứng
dụng cho cả giới luật tu viện và tiền đề giáo lý. Giới kinh trong Luật tạng quy
định tỷ-khưu phải mặc y bằng vải. Giới luật Tiểu thừa xem điều nầy như là quyy
định tối hậu, theo đó họ gặp khó khăn khi muốn đặt mình trong môi trường khí
hậu lạnh, và không thể hành hoạt một cách có hiệu quả ở Tây Tạng, miền Bắc
Trung Hoa, Mông cổ và Nhật Bản. Tỷ-khưu Đại thừa, mặt khác, mặc y bằng vải len và
cảm thấy không có gì băn khoăn. Tương tự, nếu điều luật về ăn thịt được hiểu
một cách quá nghiêm ngặt, thì dân du mục phải bị chừa lại, không được sự an ủi
của Pháp. Tăng sĩ Đại thừa nhanh chóng tìm thấy một con đường chung quanh những
điều không thể thực hiện được, và giải thích lại cho hợp với từng hòan cảnh.
Điểm đặc biệt quan trọng cho sự thành công của sự nghiệp truyền bá giáo pháp là
thái độ của họ về giới luật trong Luật tạng cấm tỷ-khưu không được hành nghề y
thuật. Lịch sử truyền bad Cơ-đốc giáo trong các thế kỷ gần đây cho thấy rằng,
ngoài sự cưỡng bức, truyền bá bằng y thuật có hiệu quả chuyển hoá hơn bất kỳ
điều gì khác. Đạo Phật xem thường cách dùng thanh kiếm nầy, nhưng con dao mổ, dược
thảo, và thuốc độc mở ra cho các nhà Đại thừa cánh cửa nhà giàu và nhà nghèo
như nhau. Tin tưởng rằng lòng từ và trách nhiệm đối với tình người đáng kể hơn
điều luật tu viện có thiện ý tốt, họ nhiệt tâm tự cho phép mình vượt qua để học
và thực hành y thuật, vốn đã tạo nên một phân khoa như trong trường Đại học
Nālanda,[195] và còn có trong các tu viện Tây Tạng.
Cùng phong thái
nhẹ nhàng và bao dung được thực hành vơí vấn đề mang tính giáo lý. Những mối quan
tâm lớn lao giảm thiểu sự khác biệt giữa quan điểm Phật giáo và không phải Phật
giáo, thu hút một số lượng lớn định kiến đã có trước của người cải đạo, và có
tác dụng, bất luận sự thuần khiết của giáo lý nào, một vài loại thuyết hỗn hợp
như Lão giáo, Bön, Thần đạo (Shinto), Bái hoả giáo (Manichaean), Shamanist[196] hay những quan điểm khác. Chủ nghĩa
phóng túng nầy, tất nhiên, có nguy hiểm cho sự nhầm lẫn xao nhãng đạo đức, và chuyên quyền ức đoán trong lĩnh vực giáo lý. Điều
nguy hiểm sau thực sự có thể tránh được hoàn toàn hơn điều trước, và văn học Đại thừa tốt nhất lại chứa
đựng rất ít, nếu không nói là chẳng có, hoàn
toàn phi chính thống.
Nếu ‘phương tiện thiện xảo’ được tách rời với
nền tảng của truyền thống tâm linh sinh động và liên tục, thì rất có thể với số
lượng đáng kể là hoàn toàn chủ nghĩa cơ hội. Thế thì lúc ấy, chúng ta phải hỏi,
cái gì giới hạn và kềm chế ‘phương tiện thiện xảo’ của những người nầy? Yếu tố
kềm chế đầu tiên là niềm tin vào lực không gì lay chuyển được của nghiệp, bởi
đó là điều mà mọi người đều ‘hiểu được rằng anh ta sẽ nếm trải mọi kết quả của
nghiệp mà anh ta đã tạo.’ Chẳng hạn, đó là trường hợp áp dụng phương tiện thiện
xảo, dù thời gian đã rất xa, năm 842 stl. khi một tăng sĩ giết một vị vua Tây
Tạng Langdarma,[197] vị nầy ngược đãi tôn giáo, động cơ bên
ngoài vị tăng có vẻ là từ bi, vì Sư muốn ngăn cản vua không làm thêm các việc
ác nữa khiến chỉ có kết quả là sự tái sanh bất hạnh nhất. Nhưng dù động cơ cao
thượng nầy, Sư biết rõ là mình đã vận dụng sai lầm. Khi sự thảm sát dịu đi và
tăng sĩ trẻ có thể được xuất gia, sư từ chối nhiệm vụ trong buổi lễ truyền
giới, vì là một kẻ thích khách, Sư phải chịu mất quyền làm việc đó, và việc
trước nhất phải làm là tịnh tâm bằng một kỳ nhập thất để sám hối. Loại hành động
nầy được xem là đương nhiên, và được đối xử như là hiển nhiên. Một lần tôi dùng
cơm trưa với Lạt-ma Mông cổ, và tôi cố gắng mời ngài dùng thức ăn chay. Ngài
nói rằng điều nầy là hoàn toàn không cần thiết, ‘Tăng sĩ Mông cổ chúng tôi
thường ăn thịt, vì ở đó không có gì khác.’ Thế nên tôi nói, ‘Thưa vâng, tôi chỉ
nghĩ đến giới luật,’ có nghĩa là điều luật của tăng sĩ xuất gia. Nhưng ngài đáp
lại ngay: ‘Vâng, chúng tôi biết thói quen ăn thịt là trái với luật do Đức Phật
chế. Vì kết quả của tội lỗi chúng tôi có thể phải tái sinh trong địa ngục. Nhưng
đó là nhiệm vụ của chúng tôi phải đem Phật pháp đến cho người Mông cổ, và vì
thế chúng tôi phải chịu nhận hệ quả ngay khi nó đến.’
Các nhà Đại
thừa bị hạn chế nhiều hơn bởi thiền định trong dòng phái vốn đã nhiều
năm đã đúc nặn và thuần phục tâm họ, và đưa ảnh hưởng đồng bộ tương tự vào vào
các trường phái Phật giáo khác. Chúng cũng chẳng bao giờ lệch hướng khỏi mục
tiêu của các nỗ lực trong đạo Phật, đó là ‘dập tắt cái ngã,’ làm chết đi tự
thể riêng biệt, với điều mà các phương sách nầy phải phụ thuộc. Quen thuộc quá
lâu với lịch sử Phật giáo biểu lộ hai yếu tố ổn đáng hơn, là không ít thực tế
và sinh động đối với hiện hữu hơn là không thể nắm bắt được, và khả năng đánh
vào người quán sát tình cờ như là điều dị thường. Đạo Phật trong suốt lịch sử
của mình có tính đồng nhất về một sinh thể (organism), trong đó
mỗi sự phát triển mới diễn ra liên tục từ cái đã có trước đó. Không có gì có
thể nhìn thấy khác hơn một con nòng nọc và con cóc, hay giữa con nhộng và con
bướm, và vì chúng là những giai đoạn khác nhau của cùng một loài vật, và liên
tục tương quan nhau từ dạng nầy đến dạng khác.
Khả năng của đạo Phật về sự thay đổi
hình dáng hoặc bản chất phải làm kinh ngạc những ai chỉ thấy thành phẩm
tách rời hẳn tiến trình dài của thời gain. Thực tế chúng được nối kết nhau bởi
nhiều sự thay đổi dần dần từ trạng thái này sang trạng thái kia, mà
chỉ bằng nghiên cứu kỹ lưỡng mới có thể dò thấu được.
Trong đạo Phật
thực sự không có sự cách tân, mà có điều giống như vậy trong thực tế là một sự
thích nghi vi tế với ý niệm có trước đó. Một lưu ý quan trọng luôn luôn dành
cho sự phát triển giáo lý liên tục, và sự truyền bá đúng pháp giữa các bậc
thầy. Đây không phải là những tư biện lẫn lộn thuộc về cá nhân chủ nghĩa mà mọi
người nỗ lực cho tính chất độc đáo bằng bất cứ giá nào.
Lại nữa, tất cả
các tác phẩm Phật học đều có hương vị riêng của nó, và trong ba mươi năm, tôi đã
không ngừng kinh ngạc với những biểu hiện trong mỗi một công trình. Kinh điển
chính nó được ví như giáo pháp cho sự nếm trải, có thể nói rằng lời dạy của Đức
Phật là như những gì có hương vị của bình an, hương vị giải thoát, hương vị
niết-bàn. Không may hương vị ấy không diễn tả được, thậm chí nhà thơ vĩ đại
nhất cũng không thể nói về mùi vị của trái đào và nói được sự khác nhau giữa mùi
vị của nó với mùi vị của trái táo như thế nào. Những ai từ chối hươgn vị kinh
điển vì chính họ thì đó là điều bất lợi nghiêm trọng trong sự thưởng thức đồng
nhất tính ẩn tàng trong mọi sắc thái đạo Phật.
Học thuyết bản thể luận (Ontological
Doctrines )
Trước đã nói về
con đường dẫn đến Siêu việt (Beyond), tiếp theo chúng ta sẽ quay về chính ý
niệm Siêu việt. Từ phía ngoài toà cung điện Đại thừa, bây giờ chúng ta đi vào
bên trong chốn linh thiêng, giáo lý trí
huệ liên quan đến bản thể luận (ontology), là bản chất của thực tại. Những giáo
lý nầy cực kỳ vi tế và sâu sắc, tôi không thể hy vọng diễn bày chỉ trong không
gian được phân phối cho tôi. Có lẽ sẽ an ủi cho chúng ta để biết được rằng hiểu
biết chân thực được cho là cần phải có không chỉ nhiều năm mà thậm chí nhiều
đời, và các tác giả Đại thừa không ngừng cảnh báo người đọc về những khó khăn
đang ở phía trước họ. Thực trạng đã được tổng kết cách ngăn nắp trong Kinh Bát-nhã
(Trí huệ Siêu việt–Perfect Wisdom,’ trong đó chúng ta đọc được: “Do vậy, có
niệm khởi từ các chư thiên trong chúng hội, ‘Điều gì là lời nói tưởng tượng và
thị phi, để chúng ta hiểu nó dù là truyền miệng. Những gì Tu-bồ-đề vừa nói cho
chúng ta, mà chúng ta chẳng hiểu!’ Tu-bồ-đề biết được ý của họ, liền nói, ‘Chẳng
có gì để hiểu, Chẳng có cả gì để được hiểu! Vì chẳng có gì riêng biệt đã được
cho biết, chẳng có gì riêng biệt đã được cho biết giải thích,’ Thực vậy, ‘Không
ai có thể sở đắc trí huệ ba-la-mật-đa nầy, vì chẳng có pháp nào để được biểu
thị, làm sáng tỏ hay truyền đạt. Thế nên chẳng có người nào từng sở đắc được
trí huệ ba-la-mật-đa.’ (Buddhist Texts, no. 165).
Mặc dù lời cảnh
cáo nầy, bây giờ tôi sẽ tiến hành liệt kê học thuyết bản thể luận (ontology)
chủ yếu của Đại thừa. Ở đây học thuyết ấy sẽ được trình bày như một tiền đề khô
khan có tính giáo điều, dù điều nầy không trái ngược với đặc tính chân thật của
nó. Vì chúng không bao giờ có ý nghĩa như là định nghĩa các lời tuyên bố về
định nghĩa các sự kiện.
Nền tảng cho
học thuyết bản thể luận (ontology) Đại thừa, như những gì nói về Phật thân luận
(Buddhology), đều nằm trong Đại chúng bộ, trường phái phát triển hai học thuyết
triết học quan trọng đáng chú ý:
1.
Tư
tưởng, trong tự thể của nó, ‘tự tánh’ hay bản thể, là hoàn toàn thanh tịnh và
trong sáng. Những nhiễm ô không bao giờ ảnh hưởng đến bản thể thanh tịnh và vẫn
lưu giữ tính ngẫu nhiên hay ‘bất định’ trong nó.
2.
Ngược
lại với triết học duy thực (philosophical realism) của các trường phái Tiểu
thừa, Đại chúng bộ càng trở nên hoài nghi về giá trị của tri thức thường
nghiệm. Một số các trường phái ấy chủ trương rằng tất cả các hiện tượng thế
gian đều là không thực, vì chúng là kết qủa của vô minh và vọng kiến điên đảo.
Điều gì siêu việt hiện tượng thế gian chính là Thực tại duy nhất và sự vắng mặt
tất cả các hiện tượng ấy được gọi là tánh không (śūnyatā)
Các trường phái khác còn đi xa hơn, và bất
luận thứ gì, cả thế gian và xuất thế gain, cả tuyệt đối và tương đối, đều là hư
vọng. Họ tin rằng không có gì thực từng tương ưng với sự diễn dạt bằng ngôn từ,
vốn chỉ cho chúng ta ảo tưởng kiến thức.
Trên nền tảng nầy, Đại thừa mở ra những tiền
đề sau:
1. Các pháp đều là Không. Tiểu thừa, để phản bác ‘quan niệm của ngoại đạo về ngã’
đã chủ trương rằng con người là ‘ngã không,’ và trong thực tế, sự kết khối của
tiến trình vô ngã được gọi là pháp (dharma). Đến đây Đại thừa thêm vào
những tiến trình không liên quan đến con người nầy được gọi là ‘ngã không – empty
of self,’ trong ý nghĩa mỗi cái đều là
không trong chính nó và bởi chính nó, và do vậy nó không thể phân biệt với các
pháp khác, thếên nó tuyệt đối không hiện
hữu.
Nội dung có tính suy đoán về ý niệm tánh không (śūnyatā) nầy
rất phong phú nên tôi phải đề cập đến tư liệu khác của Giáo sư Murti là cuốn Central
Philosophy of Buddhism. Ở đây đã đủ để nói rằng ‘tánh không (śūnyatā)’ ấy
có nghĩa là thực tại tuyệt đối siêu việt mọi nắm bắt của trí thức hiểu biết và
ngôn từ. Về mặt thực hành, chung quy là phong thái thanh thản toàn vẹn. Chúng
ta không nên ‘nắm bắt’ vào một điều gì cả, hay ‘chấp trước’ vào nó, vì điều ấy
sẽ kéo theo một hành vi thiên vị bị trói buộc bởi tính tự lợi, tự khẳng định,
và tự đề cao, khó trở thành vô ngã được. ‘ngược với tiến trình của toàn pháp
giới với pháp nầy đã được biểu thị. Nó dạy cho quý vị không nên chấp trước vào
pháp, mà thế giới thì không có thói quen thủ đắc một điều gì cả.’ (Aṣṭasāhasrikā
XV 305)
2. Thuật ngữ nầy
còn gọi là ‘Như–Suchness’ hay là ‘Nhất–One.’ Nó là ‘Như–Suchness’ chỉ nếu và khi
nào chúng ta xem nó là ‘vốn là như vậy–such as it is,’[198] không thêm
điều gì hoặc không bớt đi điều gì từ nó. Nó là ‘Nhất–One’ vì chỉ riêng nó là
chân thực. Thế giới đa thù là sản phẩm từ tưởng tượng của chúng ta.
3. Nếu tất cả là đồng nhất, thì Tuyệt đối cũng sẽ được đồng
nhất với tương đối, Vô vi đồng nhất với hữu vi, niết-bàn đồng nhất với luân
hồi. Theo đó trên thực tế sẽ là mục tiêu Bồ-tát nhắm đến niết-bàn là không loại
trừ luân hồi. Hàng phàm phu chọ luân hồi sinh tử, hàng Thanh văn và Bích chi
Phật muốn xả ly tất cả để đến niết-bàn. Bồ-tát không lìa hoặc từ bỏ thế giới
luân hồi sinh tử, nhưng không còn năng lực để làm mất đi tính chất thiêng liêng
của nó nữa.
4. Trí thức chân thực phải được phát xuất từ nhị nguyên
tính của chủ thể và đối tượng, của xác định và phủ định. Tồn tại chính là đồng
nhất với không tồn tại, ‘có’ và ‘không’ cả hai đều giống như thực và không
thực, và mọi thứ đều đồng nhất với cái phủ định chính nó. Nếu những phát biểu phải
được đưa ra, thì những tiền đề tự mâu thuẫn là những gì hầu như bộc lộ sự thật
của những gì chân thực nhất.
Nỗ lực định nghĩa bản chất chính xác của thực tại tuyệt
đối nầy dẫn đến một sự bất đồng nghiêm trọng với điều diễn ra ra trong Đại
thừa, mặt khác những cuộc tranh luận về học thuyết diễn ra tự do một cách khác
thường. Hai trường phái triết học dần dần tự định hình, đó là Trung quán
(Mādhyamika) và Du-già hành tông (Yogācāra). Trung quán (Mādhyamika) xác nhận
rằng không có bất cứ một một tuyên bố khẳng định nào có thể diễn tả Tuyệt đối, rằng
căn để ngôn ngữ của chúng ta là không thích nghi một cách vô vọng đối với vấn
đề, và do vậy, ‘im lặng dữ dội–roaring silence’ của Đức Phật chính là trung
gian duy nhất để có thể được thông tri. Du-già hành tông, phát triển từ luận
điểm đầu tiên của Trung quán, cho rằng ngược lại, Tuyệt đối có thể được trình bày một cách hữu
hiệu như là ‘tâm’ ‘niệm’ hay ‘thức.’ Triết học Trung quán chủ yếu là học thuyết
Luận lý học, qua tiến trình tự huỷ (self-annihilation) mọi tiền đề đi đến chỗ bao
hàm tất cả hoài nghi chủ nghĩa (scepticism). Triết học Kant[199] là một trường
hợp tương đương gần nhất của triết học Châu Âu. Triết học Du-già hành tông là
một dạng chủ thuyết duy tâm siêu hình (metaphysical idealism), chủ trương rằng thức
(vijñāna) có thể tự biểu hiện mà không cần đối tượng, và nó tạo ra đối
tượng của nó ngoài tiềm năng bên trong của chính nó. Berkeley[200] là một trường
hợp tương đương gần nhất của triết học Châu Âu. Trung quán cho rằng sự giải
thoát đạt được khi mọi thứ đều được phóng xả, và chỉ có tánh không (śūnyatā)
tuyệt đối còn lại. Đối với các nhà Du-già hành tông giải thoát có nghĩa là có
‘một nhận thức không còn sở đắc/nắm bắt đối tượng,’ một hoạt dụng của
tâm, đó chính là ‘Duy thức,’đơn thuần chỉ là thức, và siêu việt hoàn toàn phân
biệt giữa đối tượng và chủ thể.
Hộ trì từ
phía trên
Có nhiều chướng
ngại vây quanh Bồ-tát trong tiến trình sự nghiệp của các ngài. Từ mọi mặt, các
lực lượng thù nghịch sinh khởi chống lại, không chỉ từ tâm tha thiết của các
ngài, mà còn từ thế lực đen tối và từ chiều hướng bất lợi của lịch sử.
Đối với thế lực đen tối, không bao giờ nghi ngờ rằng
những thần linh kỳ quái có thể giúp đỡ hay chướng ngại tiến trình tâm linh, và
đó là một vấn đề đơn giản của kinh nghiệm rằng, khi họ tiến lên trên con đường
tâm linh, thì con người càng trở nên
nhạy cảm về mặt tinh thần, và có lẽ là những ảnh hưởng của huyễn thuật. ‘Vì chúng
ta đấu tranh gay gắt không phải là chống lại với thịt và máu, mà chống lại sức
mạnh, chống lại sự thống trị của bóng đêm của thế gian nầy, chống lại thành
linh độc ác của các cõi giới trên cao.’ (Ephesians vi, 12).
Đối với sức ép
của môi trường xã hội, từ niềm tin phát triển đạo Phật, như Ấn Độ giáo, tính
triết lý về lịch sử giả định một sự suy thoái liên tục trong môi trường chúng
ta sống. Lời dự đoán lùi lại lúc khởi nguyên Tây lịch cho chúng ta biết rằng
Pháp (dharma) sẽ trở nên dần dần yếu đi, và sự thay đổi quyết định về hướng xấu
sẽ xảy ra mỗi lần 500 năm. Mỗi thế hệ tinh thần sẽ cùn nhụt hơn thế hệ trước,
và đến lúc trí huệ của bậc thánh sẽ được hiểu ít dần di. Ở phương Tây, Horace[201] đã cùng lúc phát biểu cùng nội dung như
vậy:
Thời đại cha chúng ta
nhục nhã hơn thời đại của tổ tiên
Làm phiền chúng ta lại
qua nhiều suy đồi; và đến phiên chúng ta
Sẽ lìa xa giống nòi sa
đoạ hơn chúng ta.
(Odes 3. 6.)
Từ năm 400 trở
đi đạo Phật Ấn Độ tràn ngập với niềm trông mong đạt đến chỗ cứu cánh. Với Thế
Thân:
Thời
đang đến
Khi
dòng chảy cuồn cuộn cỡi trên sóng vô minh
Đạo
Phật dường như sẽ thở hơi thở cuối cùng.
(A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận
, ch. 9.)
Hai thế kỷ sau, miêu tả của Huyền Trang về chuyến hành
hương của ngài đã thở cùng hơi thở tinh thần như vậy, và ngài gặp nhiều dự báo
u ám từ nhiều nơi của Phật giáo thế giới. Áp lực của thời gian buộc phải có
nhiều nhượng bộ không mong muốn, như tăng sĩ lấy vợ và những tu viện giàu có.
Thời gian không thuận lợi và càng ngày càng xấu hơn. Sự kết
án nầy đã nhuộm màu suy nghĩ của các Phật tử chừng 1500 năm gần đây.
Sự trợ giúp mà Bồ-tát cần đến cho nỗ lực to lớn của các
ngài đến từ hai nguồn, từ năng lực tâm linh của con người và từ nhiều huyền thuật siêu nhân và năng lực huyền
bí.
Sự hộ trì của các chúng sinh vô hình luôn luôn được cho
là như vậy. Khía cạnh thần thọai học mới của Đại thừa thêm vào số lượng đó. Một
cách tân quan trọng, ảnh hưởng sâu sắc đến toàn thể âm vang của đạo Phật, có lẽ
phân chia Đại thừa từ Tiểu thừa hơn là điều gì khác, bao hàm trong sự giới
thiệu về nữ thần (feminine deities). Thông thường khuynh hướng tôn
giáo hoặc là mẫu quyền (matriarchal) hoặc là phụ quyền (patriarchal). Sự giải
thích của Tin lành về giáo lý Cơ-đốc giáo tập trung quanh Đức chúa Cha (God the
Father) và Đức chúa Con (God the Son) và quan niệm không thích thú sự sùng kính
‘Mẹ thiên chúa–Mother of God,’ vốn tương ưng rất nhiều với những điểm nổi bật
trong Thiên chúa giáo. Trong một số trường phái đạo Phật, nhân vật trung tâm là
Đức Phật, hình ảnh của Người cha, trong khi ở những trường phái khác, họ hạ tầm
quan trọng thành năng lực nữ tính, Bát-nhã ba-la-mật-đa, ngài chính là Mẹ của
chư Phật (Mother of all the Buddhas). Trong Phật giáo nguyên thuỷ, bình diện
cao hơn của đời sống tâm linh được xem như là ngoài phạm vi của phụ nữ. Ngay cả
giáo lý tiền-Đại thừa dạy rằng trong cõi Tịnh độ của Đức Phật A-di-đà không có
phụ nữ, và trong kinh Pháp Hoa chúng ta có chuyện của Long nữ, ngay lúc cô ta
trở thành Bồ-tát, tự nhiên thân cô ta hoá thành nam giới (Saddharma Puṇdarikā,
pp. 226-8, tr. H. Kern, 1909, pp. 251-4).
Tuy nhiên, yếu tố nữ lại đi với Đại thừa tư khởi đầu, nhờ
vào tầm quan trọng được gán cho Trí huệ Bát-nhã. E. Neumann, trong tác phẩm The
Great Mother (1955) gần đây đã nghiên cứu những sự biểu hiện của điều mà
ông gọi là ‘nguyên mẫu–archetype’ của ‘người Mẹ,’ và ông mô tả Sophia,[202] hay tri thức
(wisdom) là vi tế nhất và là sắc thái tinh thần nhất của nữ tính, sự tinh lọc
sau cùng của hình ảnh người Mẹ là sự tưởng tượng ra trong thời gian xa xưa
trong hang động của người Palaeolithic.[203] Bát-nhã
ba-la-mật-đa không chỉ là nữ tính bằng hình thái văn phạm của danh tự, mà về
hình tượng, nữ tính qua hình dạng của ngài cũng hiếm khi nghi ngờ. Đại thừa tin
rằng con người chúng ta nên quán chiếu chính mình hoàn toàn bằng cách tăng
cường yếu tố nữ tính của riêng mình, rằng họ nên thực hành một cách thụ động và
thong thả, mềm dẻo, rằng họ nên học cách mở cánh cửa tự do của lối vào tự
nhiên, và để cho những điều huyền bí và nguồn lực ẩn mật của thế giới nầy thâm
nhập vào trong mình, tuôn chảy và đi xuyên qua chúng. ‘Khi chúng đồng nhất với
Trí huệ Bát-nhã, họ hợp nhất với nguyên lý nữ tính (anima[204] của C.Jung),
không có nó, con người sẽ bị tổn thương.’
Đến đây chúng ta phải nói vài dòng về huyền thuật. Nhiều
người ngạc nhiên bởi mối ưu tư về hậu-Đại thừa với huyền thuật, và kết tội nó
như là sự suy thoái. Tôi thấy trong đó chẳng có gì để ngạc nhiên cả, và thích
nhìn chúng như là dấu hiệu sinh động, và thuộc về tính phổ biến khi nỗ lực làm
mọi điều cho mọi người. Về mặt lịch sử, tâm linh và huyền thuật, dù bản chất là
khác nhau, mọi nơi đều gắn bó một cách chặt chẽ. Sinh hoạt tâm linh với nỗ lực
không có huyền thuật thì trở nên quá loãng, quá nhiều điều phải cắt bỏ từ nguồn
lực sinh động của thế giới, để đưa khía canh tinh thần của con người đến mức
chín muồi. Giáo phái Tin lành là tôn giáo duy nhất xoá bỏ mọi huyền thuật. Sau
khi phá huỷ trước nhất các trung tâm quán chiếu tâm linh, về sau họ đã mất khá
nhiều năng lực kiềm chế và ảnh hưởng đạo đức cá nhân và xã hội.
Người Phật tử, đến lượt mình, chưa bao giờ thiếu niềm tin
ở sự huyền bí, ở huyền thuật và phép lạ. Nhưng vì những nguy hiểm từ phía ác
thần, đầu tiên không có sự đo lường đặc biệt nào bắt buộc trong đối xử với họ,
có lẽ phần nào đó họ đã ngẫu nhiên cầu viện đến chú thuật. Một quán sát tinh tế
về luật tắc đạo đức cũng như giám sát thiền định đủ để tránh khỏi nguy hiểm và được
bảo hộ. Nhưng vì tiềm năng tinh thần của Pháp mòn khuyết dần, và vì lịch sử trở
nên càng bất lợi hơn, nên nhiều nỗ lực
lớn hơn đã được cần đến.
Những thủ tục huyền thuật nầy được giới thiệu chủ yếu là
để phòng ngừa đời sống tâm linh của tầng lớp cao. Nhưng vì Đại thừa cũng là một
tín ngưỡng dân gian, nó chỉ là tự nhiên khi nó
thường được dành cho quần chúng không có đời sống tâm linh mà họ mong
muốn. Trong thế kỷ thứ III chúng ta đã nghe nói về công đức của việc niệm danh
hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, vốn qua chính việc trì niệm mà xua tan đi mọi khổ đau
và phiền não. Chẳng hạn, khi một đoàn lữ hành đang gặp nguy hiểm, ‘nếu lúc đó,
toàn bộ đoàn thương buôn nhất tâm cầu nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm với danh hiệu:
Nam mô Cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ-tát!’ thì chỉ ngay khi niệm danh hiệu,
đoàn thương buôn sẽ được thoát nạn.’(Saddharma Puṇdarīkā).[205] Để
gia tăng sự lợi lạc cho người bình dân, động viên toàn bộ cơ cấu phức tạp của
huyền thuật để cung ứng cho họ những gì họ đã có trong tâm niệm–mùa màng bội
thu, sức khỏe tốt, con cái, giàu có và các lợi lạc thế gian. Cho đến lúc đó,
niềm tin đã nằm trong các nghi lễ Bà-la-môn để cầu cho được các điều nầy, nhưng
bây giờ tăng sĩ Phật giáo bước vào đua tranh với họ trong vấn đề nầy.
Cùng lúc có những
phản ứng tự nhiên chống lại ý niệm Bồ-tát phải trải qua nhiều kiếp mới đạt được
Phật quả. Mục đích tối hậu của các ngài. Đối với nhiều người, một mục đích không
thể cung cấp một động cơ cho hành động, và họ sẽ trôi giạt vào sự mệt mỏi và
thất vọng. Nhiều kết quả trung gian và xác thực đã được tìm ra cho họ để thực
hành. Sau khi chết tái sinh vào các quốc độ, chẳng hạn, Đức Phật A-di-đà ở
phương Tây, hay Đức Phật A-sơ[206] ở phương Đông,
trở nên mục tiêu có ý nghĩa thân thiết đối với phần lớn những tín đồ. Một số
khác tin rằng sẽ tái sanh vào thời Đức Phật Di-lặc, khi điều kiện trong tương
lai xa xôi của thế giới trở nên nhiều triển vọng hơn. Những người tái sinh trong
cách nầy có thể thấy thân hào quang của Đức Phật, người trong mỗi cái nhìn đều
có những vi diệu phát ra:
Nhìn thấy Đức Phật, nhìn Thế tôn, tiêu mất bệnh
khổ.
Khiến cho thấy được Đức Phật của chính mình, tuệ
giác cao nhất.
(Buddhist
Texts, p. 189.)
Trong thời đại chúng ta ngày nay, với cái nhìn về tâm
linh ở tầm mức rất thấp, sự thành tựu giác ngộ, thông thường được cho là ra
ngoài vấn đề. Tất cả những gì chúng ta
có thể làm là đặt một nền tảng cho nó vào thời điểm tương lai bằng cách gieo
trồng ‘công đức.’
Cả hai sự canh tân
về huyền học và bản thể luận (ontology) của Đại thừa mở đường cho quy mô lớn
thu hút sự thực hành huyền thuật và đức tin. Một khi các đền thờ đạo Phật được
mở rộng bởi sự gom hết vào các vị Phật và Bồ-tát mới, cánh cửa đã mở ra cho một
số nhân cách huyền thoại. Sau năm 600 stl., hằng ngàn năng lực huyền bí được nhân
cách hoá ở mỗi thời gian khác nhau với tên gọi, miêu tả và công hạnh tu tập
khác nhau. Về sau người Tây Tạng nỗ lực xếp loại các thần theo thành quả, và
sắp đặt họ thành 10 bậc, bắt đầu với Đức Phật, và cuối cùng là các vị thần nhỏ
ở trong núi, sông, cùng với tiên, yêu tinh, quỷ sứ và ma. Quan niệm về tăng
trưởng ý nghĩa nghịch cảnh nhấn mạnh lớn hơn được đặt vào trong vị ‘Hộ pháp,’
còn gọi là Minh vương (Kings of the sacred lore; s: vidyārājā), người mà
vốn đã có sẵn nhân từ, mang lấy một hình tướng dữ dằn để bảo hộ đức tin.
Luận điểm mang tính bản thể luận (ontology) về sự đồng
nhất của niết-bàn và luân hồi sinh tử, của Tuyệt đối nhất như với thế giới hiện
tượng là khẳ năng dễ dàng của dạng phiên giải vu trụ vốn là nền tảng triết học
của mọi huyền thuật. Cái Tuyệt đối, nguyên lý triết học đằng sau vũ trụ, là đồng
nhất với nguyên lý giải thoát của tôn giáo, với Phật tánh hay Đức Phật con người.
Đức Phật tối thượng hiện hữu khắp toàn thể vũ trụ, và là hiện thân trong tất
cả. Mỗi tư tưởng, âm thanh và hành động đều là trong bản chất chân thực một
công hạnh ân huệ cứu độ. Như một thể hiện của Tuyệt đối, thế giới nầy bao gồm
mọi sự mầu nhiệm của thực tại, và năng lực bí ẩn của nó có thể được dùng cho sự
cứu độ. Như là ánh phản chiếu của Bất nhị, nó phải chiếu khắp mọi nơi, hiển bày
và biểu lộ cái biết bao hàm toàn diện độc nhất nầy. Nếu tất cả các pháp về cơ
bản đều đồng nhất trong một Bản thể Thanh tịnh, thì toàn thể hiện tượng vũ trụ có thể được quan niệm như là một quan hệ mật
thiết cùng nhau bởi nhiều sợi dây vô hình, mỗi lời nói, hành vi và tư tưởng đều
có chút quan hệ trong nền tảng (ground) bất diệt của thế giới.
Huyền thuật chính là tính thống nhất này, như nó thể hiện
trong hành động. Nếu Tư tưởng (Thought) chính là Thực tại, và mọi thứ vật chất
đều là biểu hiện của năng lực tâm linh, thì những tâm niệm cô đọng trong thần
chú (mantra) dễ dàng có sức mạnh vượt qua hiện tượng vật chất. Tánh
không (śūnyatā), đến lượt nó, hiện hữu chẳng có gì riêng biệt trong chính nó,
dâng hiến sự không chướng ngại cho sự chuyển hoá bởi thần chú (mantra).
Đến đây là chấm dứt thiên khảo sát về Đại thừa. Ở Ấn Độ,
một tổng hợp của mọi thành phần đa dạng có tác dụng trong các trường Đại học
Phật giáo dưới triều đại Pāla[207] (750-1150):
Rồi sau đó khoảng chừng năm 1200 stl. đạo Phật, cùng với Đại thừa biến mất khỏi
Ấn Độ, không khỏi để lại dấu ấn ban sơ sâu đậm cho Ấn Độ giáo. Lúc đó, nền Phật
giáo dưới triều đại Pāla phải di cư sang Tây Tạng, trở nên thành trì của Phật
giáo trong hơn 750 năm.
(Con xin thành kính
tri ân Thượng tọa Thích Nhuận Châu - Tăng chủ Tịnh thất Từ Nghiêm - Đại tùng
lâm, đã gửi tặng bản điện tử)
[1]
Trình bày và các thuật ngữ chúng tôi dùng ở đây là theo tư liệu của C. Regamey,
trong : Der Buddhismus Indiens, 1951, pp và
Buddhistische Philosophie (a bibliography), 1950, pp. 14-27
[2]
E: Older Anglo-German school
[3]
Viện sĩ Hàn lâm Liên xô. Tác giả nhiều nghiên cứu đạo Phật nổi tiếng như Buddhist
Logic, Conception on Nirvāṇa, ...
[4]
E: Assumptions: điều
được chấp nhận là đúng hoặc chắc sẽ xảy ra, nhưng không được chứng
minh; giả định
[5]
Bổ đốn: Bố Đốn (1290-1364). 布頓 Bu-ston rin-chen grub hoặc Bu-ston kha-che. Cũng gọi Bố
Đốn Nhân Khâm Trát Ba hoặc Bố Đốn Bảo Thành. Là vị tăng học giả thuộc phái Tát
Ca (Sakya-pa) của Phật giáo Tây Tạng, lúc đầu theo ngài Ni Mã (Ni-ma
rgyal-mtshan dpal-bzan-po) xuất gia học Hiển giáo, sau lại theo vị cao tăng của
phái Đổ Phổ (Khro-phu) tên là Dưỡng Kiệt Ba (Yan-rtse-ba Rin-chen sen-ge) tu
tập Mật giáo. Sau sư đến trụ trì chùa Hạ Lộ (Sha-la) gần Tây Ca Kết
(Gshi-ga-tse), làm cho tông phong phát triển mạnh, người đời gọi tông phong của
sư kà phái Hạ Lộ, có ảnh hưởng rất lớn đối với các phái ở đời sau. Sư viết cuốn
Thiện Thệ Giáo Pháp Sử (Bde-gség bstan-pahi chos-hbyun, 1322, thường được gọi
là Bố Đốn Phật Giáo Sử) và chính nhờ tác phẩm này mà sư được nổi tiếng. Sách
này tuy phần nhiều mang tính truyền thuyết, nhưng không vì thế mà mất giá trị
sử liệu của nó, trái lại, nó cũng là bộ sách trọng yếu giúp cho việc nghiên cứu
để hiểu rõ lịch sử của Tây Tạng thời cổ.
Sư lại sưu tập những Thánh
điển Phật giáo và các bản chú thích những Thánh điển ấy được viết tại Ấn Độ,
rồi đến các bản dịch Tây Tạng của các bộ luận thư v.v…, các bản in tạng kinh
Tây Tạng cũ ở chùa Nại Đường, sau đó, sư sửa chữa rồi thêm những kinh điển mới
được dịch vào, tất cả khoảng 1000 bộ, sư chia làm hai loại lớn là: Cam Châu Nhĩ
và Đan Châu Nhĩ, rồi sư biên soạn mục lục của hai bộ này.
Ngoài ra còn có Bố Đốn Toàn
Thư (Bu-ston gsun-hbum) gồm 206 bộ và Tông Khách Ba Toàn Thư (Tson-kha-pa) đều
là những tư liệu trọng yếu của văn hiến Phật giáo bằng tiếng Tây Tạng. [X. E.
Obermiller: History of Buddhism by Bu-ston, 1931-1932; G.N. Roerich: The Blue
Annals, 1949-1953].
[6]
Cách dùng của từ ‘dharma’ ở mọi chỗ khác có trong bản kinh nầy, với sự
thận trọng do nó mang nhiều ý nghĩa, thường là ba, có khi là bốn; các nghĩa ấy
là: Trước hết, nó biểu thị một thực tại tuyệt đối (ultimate reality) như là một
sự thực, đó là Pháp (the Dharma). Tiếp đến, sự nhận thức và giáo pháp của Đức
Phật về thực tại đó, Pháp như là ‘giáo lý–doctrine.’ Từ ghép Sad-dharma
(Diệu pháp) có nghĩa chính là điểm nầy, và do vậy, tôi đã dịch là ‘good
doctrine’ ở các đoạn 6, 14b, 16b, 21b. Nhưng hầu như toàn bộ các trường hợp
nó cũng gần với nghĩa ‘pháp–a dharma,’ có nghĩa là một sự kiện được xem
như là thực tại tuyệt đối, như được hiểu theo giáo lý A-tỳ-đạt-ma, mà ở đây tôi
phải giả dụ là như vậy. Và sau cùng, thuật ngữ nầy trong một vài trường hợp,
Chẳng hạn, như ‘dụ chiếc bè pháp’ ở đoạn 6, cũng có nghĩa là ‘Diệu
pháp, thiện pháp–good’ còn ngược lại là ‘chẳng phải pháp–adharma, có
nghĩa là phi pháp. (Kinh Kim Cang_E.Conze)
[7]
Th. Stcherbatsky, The Central Conception of Buddhism and the Meaning of the
word ‘Dharma,’ 1923. Reprint in 1956.
[8]
Zur Geschichte der buddhistischen Dharma-Theory,
ZDMG 1938. Pp. 383-420.
[9]
Das Mahā parinirvāna sūtra, 1950-1, 3 quyển, 1944-1948. Ak.d.Wiss, zu
Berlin.
[10]
Die Ueberlieferung vom Lebebssende des Buddha, 2 quyển, 1944-1948.
Ak.d.Wiss, Goettingen.
[11]
Giả định nầy, dĩ nhiên, là do Thượng toạ bộ có thể bị đồng nhất với các người
thuộc Phân biệt bộ (Vibhajyavadins)–một vấn đề gai góc và không
đáng được khích lệ của lịch sử đạo Phật.
[12]
Điều ấy không chỉ áp dụng cho kinh tạng, mà còn chỉ cho văn hệ thiền học của
trường phái nầy, nghiên cứu của P. Demiéville bắt đầu từ 1954 với tác phẩm của
ông về Du-già sư địa (Yogācārabhūmi) của Sangharaksha.
[13]
Có bốn lần kết tập trong lịch sử phát triển đạo Phật. Lần kết tập thứ nhất được
tổ chức tại Vương xá (s: rājagṛha) ngay sau khi Phật diệt độ. Lần kết tập thứ
hai được tổ chức tại Vệ-xá-li (s: vaiśālī), khoảng 100 năm sau Vương xá, tức là
khoảng năm 386 trước Công nguyên. Lần thứ ba được tổ chức tại Hoa Thị thành (s:
pāṭaliputra), ngày nay là Pat-na, trong thế kỉ thứ hai sau ngày Phật nhập
Niết-bàn. Lần kết tập này không được Thượng toạ bộ (p: theravāda) công nhận. Thượng
toạ bộ theo truyền thống riêng và xem lần kết tập thứ ba này được thực hiện qua
trường phái Pāli trong thời gian A-dục vương (s: Aśoka) trị vì. Lần kết tập thứ
tư được tổ chức tại Kashmir, ý kiến về lần này cũng khác nhau. Có người cho
rằng đó là lần kết tập toàn thể do vua Ca-nị-sắc-ca (s: ka-niṣka) tổ chức, có
người cho rằng đó chỉ là kết tập của phái Nhất thiết hữu (s: sarvās-tivāda). Kết
tập lần thứ hai: lần này được tài liệu ghi rõ hơn lần thứ nhất nhiều và xem như
một sự thật lịch sử. Lí do kết tập trong khoảng năm 386 trước Công nguyên là vì
những khác biệt về giới luật. Lần đó, các tỷ-khưu ở Vệ-xá-li đã đi ngược giới luật, nhận vàng
bạc cúng dường của Phật tử. Ðồng thời, một đệ tử của A-nan-đà là Da-xá (s:
yaśa) chê trách các vị này phạm giới luật như ăn không đúng thời, rượu chè…
Da-xá vì vậy mà bị trục xuất khỏi Tăng-già. Vị này cầu cứu các vị tăng khác.
Cuối cùng một đại hội với 700 tỷ-khưu được
triệu tập, bầu một hội đồng gồm mỗi vùng Ðông Tây bốn vị, lên án các vị tăng
phạm luật ở Vệ-xá-li. Các vị tăng này cũng nhận lỗi. Biên bản đại hội này đã được
ghi lại trong Luật tạng, bằng văn hệ Pāli cũng như Phạn ngữ (sanskrit). Về sau,
một số vị trưởng lão theo truyền thống Tích Lan cho rằng lần kết tập này đã dẫn
đến sự chia rẽ giữa Trưởng lão bộ (s: sthavira) và Ðại chúng bộ (s:
mahā-sāṅghika). Các vị này cho rằng các tăng sĩ Vệ-xá-li đã thực hiện một kết
tập khác để thành lập Ðại chúng bộ.
[14]
Ðại sự 大
事;
S, P: mahāvastu; Một tác phẩm thuộc Tiểu thừa của Thuyết xuất thế bộ (s:
lokottaravāda) nói về các tiền kiếp xa xưa của đức Phật Thích-ca. Tác phẩm này
cũng nói đến bước đường tu học của một vị Bồ-tát (Thập địa) và vì vậy người ta
xem tác phẩm này là một gạch nối giữa Tiểu thừa và Ðại thừa.
[15]
Kim quang minh kinh 金 光 明 經; S: suvarṇaprabhāsa-sūtra; còn gọi là Kim quang minh
tối thắng vương kinh 金 光 明 最 勝 王 經; S: suvarṇaprabhāsottama-rāja-sūtra; cũng được gọi tắt là
Kim quang minh kinh; Tên của một bộ kinh Ðại thừa. Kinh này đóng một vai
trò quan trọng tại Nhật vì nói đến một số quan điểm chính trị của đạo Phật, được
giới quý tộc tại đó coi trọng. Kinh này bắt đầu với sự giảng nghĩa về tính chất
của một vị Phật, một vị không chỉ tồn tại, xuất hiện dưới nhân dạng mà cũng là
sự biểu hiện của nguyên lí vũ trụ. Phật ở trong mỗi chúng sinh và tất cả chúng
sinh đều thụ hưởng, cảm nhận được lòng từ bi vô biên của Phật. Ngoài ra kinh
này cũng dạy rằng, cánh cửa của các cõi Phật luôn luôn mở rộng tiếp độ chúng
sinh bởi vì mỗi chúng sinh đều là Phật. Phương cách để đạt được mục đích trên
chính là sám hối và hành động vị tha; một câu chuyện quan trọng được kể lại
trong kinh này là việc một Đức Phật thời xa xưa hiến thân mình cho một con sư
tử đói. Một điểm quan trọng của kinh này là trí Bát-nhã (s: prajñā), một loại
trí biết phân biệt thiện ác: Trong thời Nại Lương (nara, tk. 8), kinh này được
phổ biến rộng tại Nhật, đặc biệt rất được các nhà cầm quyền bấy giờ quý trọng –
quý trọng đến mức độ chư vị muốn lập một vương quốc theo gương kinh này dạy.
[16]
Ấn bản tiếng Sanskrit năm 1937. Bản dịch tiếng Tây Tạng năm 1944 và 1958. Bản
tiếng Đức được dịch vào năm 1958 từ bản tiếng Hán của Ngài Nghĩa Tịnh.
[17]
Rāṣṭrapālaparipṛcchā-sūtra (s); Hộ Quốc tôn giả sở vấn kinh 護 國 尊 者 所 問 經, nằm
trong bộ kinh Bảo Tích. E: the Question of Rāṣṭrapāla (270 A.D.).
Bản tiếng Anh do J.Ensink dịch năm
1952.
Dharmarakṣa thuộc đời Đông Tấn Trúc Pháp Hộ (竺 法 護);
Hán dịch âm là Đàm-ma-la-sát, cũng gọi là Chi Pháp Hộ. Tổ tiên ngài là người
xứ Nguyệt Chi, đến cư ngụ ở Đôn Hoàng. Năm lên 8 tuổi, xuất gia theo ngài Trúc
Cao Tòa, vì thế lấy chữ Trúc làm họ. Ngài tánh tình hiền hòa mà hiếu học, mỗi
ngày tụng có đến hàng chục ngàn câu kinh, lại thông hiểu hết thảy luận thuyết
của các danh gia. Thời bấy giờ, mọi người tuy đã biết lễ bái nơi tự viện, thờ
kính tranh tượng, nhưng kinh điển Đại thừa còn chưa đầy đủ. Vì vậy mà ngài lập
chí sang Ấn Độ thỉnh kinh. Ngài đi qua nhiều nơi, học thông thạo được ngôn ngữ,
văn chương của 36 nước Tây Vực. Theo Pháp Hoa Truyện Ký, quyển nhất, vào
niên hiệu Thái Thủy thứ nhất đời Võ Đế (265), ngài mang theo nhiều bản kinh
tiếng Phạn đến Trường An, Lạc Dương, chuyên việc dịch kinh, có các vị Nhiếp
Thừa Viễn, Nhân Pháp Thừa, Trần Sĩ Luân... cùng tham gia việc đọc duyệt, hiệu
đính... Những năm cuối đời Vũ Đế (Vũ Đế tại vị từ năm 265 đến năm 291), ngài
hết lòng hoằng hóa tại Trường An suốt hơn 20 năm. Ngài thị tịch khoảng niên
hiệu Kiến Hưng đời Mẫn Đế (313 – 316). Có tư liêu ghi rằng ngài viên tịch vào
niên hiệu Huệ Đế. Người đương thời xưng tụng ngài các danh hiệu như Minh Chi Bồ
Tát, Đôn Hoàng Bồ Tát, Đôn Hoàng Khai Sĩ, Bản Trai Bồ Tát. Về số kinh điển ngài
đã dịch, căn cứ theo Xuất Tam Tạng Ký Tập, quyển 2, thì có 154 bộ, gồm
309 quyển. Vào niên hiệu Thái Khang thứ 6 (286), ngài dịch Chánh Pháp Hoa
Kinh, trở thành người đầu tiên tạo lập niềm tin vào Bồ-tát Quán Thế Âm tại
Trung Quốc. Theo Lịch Đại Tam Bảo Kỷ, quyển 6, thì số kinh do ngài dịch
có tăng hơn, lên đến 210 bộ, 394 quyển. Tuy nhiên, hiện trong Đại Tạng Kinh
thực sự chỉ còn lại được 94 bộ kinh ghi tên ngài.
[19] Thuộc kinh hệ Bát-nhã. Bộ kinh này có
tính giáo khoa rất cao, tương tự như các bộ kinh văn hệ Pā-li. Phần lớn các bài
kinh là những lời khai thị cho Tu-bồ-đề (s, p: subhūti), được Phật thuyết giảng
trên đỉnh Linh Thứu (s: gṛdhrakūṭa). Phần cổ nhất của kinh này là Bát-nhã
bát thiên tụng (s: aṣṭasāhasrikā) – cũng được gọi là Tiểu phẩm bát-nhã
– một bộ kinh gồm 8000 câu kệ Phật giảng cho nhiều đệ tử cùng nghe. Ðây cũng là
cơ sở cho tất cả bộ kinh Bát-nhã khác, mỗi bộ gồm từ 300-100 000 câu kệ với vô
số bài luận và phiên dịch. Bản dịch chữ Hán đầu tiên ra đời khoảng năm 179. (E:
Prajñāpāramitā in 8.000 Lines).
[20] Xem Kinh Kim Cang và Bát-nhã Tâm kinh
(Hṛdaya) của cùng tác giả.
[21] Aśoka: A-dục
阿 育; S: aśoka; P: asoka; cũng gọi là A-du-ca, dịch nghĩa là
Vô Ưu, không ưu sầu, lo nghĩ;
Tên của một vị vua xứ Maurya miền Bắc Ấn Ðộ, trị
vì từ năm 272 đến 236 trước Công nguyên, mất năm 231. Trong lịch sử Ấn Ðộ, ông
đã để lại nhiều dấu tích quan trọng. Sau một cuộc viễn chinh đẫm máu năm 260
ông có dịp được nghe Phật pháp và tỉnh ngộ, quyết định thành lập một Vương
quốc phụng sự Phật pháp. Ông đích thân đi khắp các miền trong nước để bảo
vệ luật lệ và chính pháp. Ông cũng là người cổ vũ việc ăn chay và chống tệ nạn
giết thú vật cúng tế. Trong thời A-dục vương, đạo Phật phát triển mạnh ở Tích
Lan. Người con trai của A-dục vương là Ma-hi-đà (Mahinda) cũng góp phần rất
nhiều trong việc truyền bá đạo Phật.
[22] 9 thể loại là thuộc về Thượng toạ bộ và
Đại chúng bộ. 12 thể loại là thuộc các bộ phái khác. Trong Hán ngữ, thường gọi
là Thập nhị bộ kinh, Thập nhị phần giáo. Mười hai phần giáo bao gồm: 1. Kinh (經; s: sūtra) hoặc Khế kinh (契 經), cũng được gọi theo âm là Tu-đa-la (修 多 羅), chỉ những bài kinh chính đức Phật thuyết; 2. Trùng tụng (重 頌; s: geya) hoặc Ứng tụng (應 頌), gọi theo âm là Kì-dạ (祇 夜). Một dạng kệ tụng mà trong đó nhiều câu được lặp đi lặp lại; 3. Thụ kí (受 記; s: vyākaraṇa), âm là Hoa-già-la-na (華 遮 羅 那), chỉ những lời do đức Phật thụ kí, chứng
nhận cho các vị Bồ Tát, đệ tử mai sau thành Phật và những việc sẽ xảy ra…; 4.
Kệ-đà (偈 陀; s: gāthā), cũng được gọi là Kí chú (記 註) hay Phúng tụng (諷 頌), những bài thơ ca không thuật lại văn trường hàng, xem Kệ; 5. (Vô vấn) Tự
thuyết ([無 問]自 說; s: udāna) hoặc Tán thán kinh (讚 歎 經), âm là Ưu-đà-na (憂 陀 那), chỉ những bài kinh mà Phật tự thuyết,
không phải đợi người thỉnh cầu mới trình bày; 6. Nhân duyên (因 緣; s: nidāna) hay Quảng thuyết (廣 說), gọi theo âm là Ni-đà-na (尼 陀 那), chỉ những bài kinh nói về nhân duyên
khi Phật thuyết pháp và người nghe pháp…; 7. Thí dụ (譬 喻; s: avadana) hoặc Diễn thuyết giải ngộ kinh (演 說 解 悟 經), âm là A-ba-đà-na (阿 波 陀 那), chỉ những loại kinh mà trong đó Phật sử dụng những thí dụ, ẩn dụ để người
nghe dễ hiểu hơn; 8. Như thị pháp hiện (如 是 法 現; s: itivṛttaka) hoặc Bản sự kinh (本 事 經), âm là Y-đế-mục-đa-già (醫 帝 目 多 伽), chỉ những bài kinh nói về sự tu nhân
chứng quả của các vị đệ tử trong quá khứ, vị lai; 9. Bản sinh kinh (本 生 經; s: jātaka), gọi theo âm là Xà-đà-già (闍 陀 伽); 10. Phương quảng (方 廣), Phương đẳng (方 等; s: vaipulya) hoặc Quảng đại kinh (廣 大 經), gọi theo âm là Tì-phật-lược (毗 佛 略); 11. Hi pháp (希 法; s: addhutadharma) hoặc Vị tằng hữu (未 曾 有), âm là A-phù-đà đạt-ma (阿 浮 陀 達 磨), kinh nói về thần lực chư Phật thị hiện, cảnh giới kì diệu, hi hữu mà
phàm phu không hội nổi; 12. Luận nghị (論 議; s: upadeśa), cũng được gọi là Cận sự
thỉnh vấn kinh (近 事 請 問 經) hoặc theo âm là Ưu-ba-đề-xá (優 波 提 舍), chỉ những bài kinh có tính cách vấn đáp
với lí luận cho rõ lí tà, chính.
[23]
Anh ngữ: 1. Sermons, 2. Mingled
Prose / Verse, 3. Prediction, 4. Verses, 5. Verses of Uplift, 6. Origins, 7. Tales,
8.Thus-was- said, 9. Birth-stories, 10. Expanded Texts, 11.Marvels, 12. Expositions.
Thượng toạ bộ không có Nhân duyên (Nidana), Thí dụ (Avadana) Phương quảng (Vaipulya) và Luận nghị (Upadeśa), thay vào đó một mục có chút huyền bí là Vedalla.
[24]
Mātṛka: Nguyên nghĩa là Mẫu thân 母親, tổ mẫu 祖母, hoặc khởi nguyên 起源. Các văn tự
hoặc tự mẫu của văn tự đó. Tự mẫu 字母. Biệt danh của A-tỳ-đạt-ma (Abhidharma). Còn có các nghĩa Căn bản
chi tự 根本之字, hành cảnh giới 行境界. Anh ngữ “Summaries” hay “Numerical
Lists.” Có thể hiểu là Pháp số.
[25]
Tập bộ kinh 集
部
經;
P: sutta-nipāta; Một phần của Tiểu bộ kinh, gồm những bài kinh dưới
dạng thi kệ.
[26]
Ðộc Tử bộ 犢
子
部;
S: vātsīputrīya; còn được gọi là Trụ tử bộ (s: pudgalavāda); tách ra từ Trưởng
lão bộ (s: sthavira) trong năm 240 trước Công nguyên. Ðó là bộ phái dám đi xa
nhất so với các nguyên lí kinh điển thịnh hành trong Thượng toạ bộ. Người sáng
lập của phái này là Ðộc Tử (s: vātsīputra), vốn theo đạo Bà-la-môn, cho rằng
đàng sau mỗi con người có một cá nhân, một Bổ-đặc-già-la (補 特 伽 羅; s:
pudgala; p: puggala), không giống cũng không khác với Ngũ uẩn. Con người đó là
kẻ đi tái sinh, là kẻ chịu tất cả các nghiệp báo, thậm chí là kẻ tiếp tục hiện
diện trong Niết-bàn. Trong thời đại bấy giờ Ðộc Tử bộ là một trong những bộ
phái lớn, nhưng quan điểm của bộ phái này bị các tông phái chống đối vì họ cho
rằng Bổ-đặc-già-la của Ðộc tử chẳng qua chỉ là biến dạng của một tự Ngã (s:
ātman), là quan niệm mà đã bị Đức Phật phủ nhận.
[28]
H. Lueders, Beobachtungen ueber die Spache des buddhisstchen Urkanons,
Abh.dtsche Ak. d. Wiss zu Berlin, 1954, 196 pp.
[29]
Kāyena: do thân. Nguyên văn Anh ngữ của Conze: He sees Dhamma with
his body. Bản dịch tiếng Hán:
不以多言故,彼為持法者。彼雖聞少分,但由身見法,於法不放逸,名持法者。
(Chẳng phải cậy nhiều lời cho là hộ trì Chánh pháp, nhưng tuy
học ít mà do thân thực thấy Chánh pháp, không buông lung, mới là người hộ trì
Chánh pháp).
E: Simply talking a lot doesn't
maintain the Dhamma.
Whoever although he's heard
next to nothing – sees Dhamma through his body, is not heedless of Dhamma, he's
one who maintains the Dhamma.
[31] Des buddhismus Indiens, 1951, pp. 248-64. Le Problème du Buddhisme primitif et le derniers
travaux de Stanislaw Schayer, Roczinik Orientalisticzny, xxi,1957, pp.
37-58.
[33] Xem tác phẩm của tôi Buddhist Sciptures,
Pinguin Classics, 1959, pp 195-7.
*Ðộc Tử bộ (s: vātsīputrīya), cho rằng đàng sau mỗi con người có một cá
nhân, một Bổ-đặc-già-la (補 特 伽 羅; s: pudgala; p: puggala), không giống
cũng không khác với Ngũ uẩn. E: Person.
[34] Quang minh, Phát tịnh đại quang minh,
quang tịnh cực, tối thượng quang,
E: translucent.
[35]
E: Realm of Dharma.
[36]
Theo Von Glasenapp.
[37]
Theo trường phái Ba lan.
[40]
E: Vedanta and Buddhism, 1950, Ak. d. Wiss. Và d. Lit. in Mainz, 18 pp.-
Một phần của bài viết nầy đã xuất hiện bằng Anh ngữ trong The Buddhist,
xxi, ‘1951, và trong The Middle Way, xxxi, 1957., và như là một pamphlet
của Buddhist Publication Society ở Kandy, 1958.
[41]
R.L. Slater, Paradox and Nirvāṇa, 1951.
862 pp.
[45]
Buddhist Hybrid Sanskrit Grammar and Dictionary. 2 quyển.
[46]
Kinh lượng bộ 經
量
部;
S: sautrāntika; Một nhánh của Tiểu thừa xuất phát từ Nhất thiết hữu bộ (s:
sarvāstivāda) khoảng 150 năm trước Công nguyên. Như tên gọi cho thấy
(sautrāntika xuất phát từ sūtrānta, có nghĩa là Kinh phần, chỉ Kinh tạng của
Tam tạng), bộ này chỉ đặt nền tảng trên Kinh tạng (s: sūtra-piṭaka) và phản bác
Luận tạng (s: abhidharmapiṭaka) cũng như quan điểm »Nhất thiết hữu« (tất cả đều
hiện hữu, đều có) của Nhất thiết hữu bộ. Kinh lượng bộ cho rằng có một thức
tinh vi hơn thức thông thường, từ đó đời sống con người sinh ra và chính thức
đó sẽ tái sinh. So sánh với Ðộc Tử bộ (s: vatsīputrīya) – là bộ phái cho rằng
có một tự ngã thật sự, sống kiếp này qua kiếp khác – thì Kinh lượng bộ cho
rằng, chỉ có thức là luân chuyển trong Vòng sinh tử và với cái chết thì bốn uẩn
còn lại ( Ngũ uẩn; s: pañcaskandha) chìm lắng trong thức đó. Quan điểm về sự
tồn tại của thức này đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành Duy
thức tông (s: vijñānavāda, yogācāra). Kinh lượng bộ còn cho rằng, mỗi một hiện
tượng thật sự chỉ hiện hữu trong một khoảnh khắc cực nhỏ – được gọi là Sát-na (s:
kṣaṇa) – và mỗi quá trình chỉ là tiếp nối những khoảnh khắc đó, mỗi quá trình
thông qua thời gian chỉ là Ảo ảnh. Kinh lượng bộ xem Niết-bàn (s: nirvāṇa) là
sản phẩm của sự phủ nhận (e: negation) của tư duy, là sự tịch diệt.
[47]
Phật mẫu bảo đức tạng bát-nhã ba-la-mật kinh
佛 母 寶 悳 藏 般 若 波 羅 蜜 經; C: fómǔ băodézàng bānruò bōluómì
jīng; J: butsumo hōtokuzō hannya haramitsu kyō; S:
prajñāpāramitāratna-guṇa-saṃcayagāthā. Kinh, gồm 3 quyển. Tên gọi tắt là Bảo
Đức tạng kinh (寶 悳 藏 經); Pháp Hiền (法 賢) dịch. Về tiếng Phạn, xem bản của
Yuyama biên tập năm 1976.
[48]
W. E. Soothill.
[49]
1958, by E. Conze, The Asiatic Society, Calcutta.
[50]
1958, by J. Nobel, Suvarṇaprabhāsottiamasūtra, E. J. Brill, Leiden.
[51]
Chẳng hạn,, cuối trang 96 câu sau đây bị biến mất trong chứng cứ thứ nhì mà tôi
không bao giờ thấy: “synthesis, and that it is in this sense that they are
concentrated thought, the same as space. The Tathagata knows unconcentrated
thoughts for.”
[52]
Xem trang 67 n 7, 70 n. 2, 102 n. 5, 155n.6, 161 n.1, 263n.5, 179n.
4, 260 n. 5, 362 n. 1 ( nơi ông ta
công nhận không biết điều gì là Bốn phạm trụ –four brahmaviharas).
[53]
Rāṣṭrapālaparipṛcchā-sūtra (s); Hộ Quốc tôn giả sở vấn kinh 護 國 尊 者 所 問 經, nằm
trong bộ kinh Bảo Tích. E: the Question of Rāṣṭrapāla (270 A.D.). Zwolle, Holland.
[54]
Đại bản Bát-nhã (Large Prajñāpāramitā)
[55]
Bản dịch sớm nhất do Chi Khiêm, Phật thuyết Duy-ma-cật kinh, niên hiệu
Hoàng vũ thứ 1 (222) Bản dịch này hình như không còn được lưu hành dưới thời
Tăng Hựu. Bản dịch do Cưu-ma-la-thập được kể là bản thứ hai, gần 200 năm sau
đó. Tiếp theo là San Duy-ma-cật kinh, 1 quyển, do Sa-môn Trúc Pháp Hộ,
thực hiện trong khoảng niên hiệu Thái thủy. Tăng Hựu nói là do Trúc Pháp Hộ
sang Tây vực tìm được bản Phạn mang về. Tăng Hựu cũng cho biết ý kiến là, Pháp
Hộ cắt xén bớt một số kệ trong bản dịch cũ của Chi Khiêm được xem là hơi rườm
rà.Bản dịch tiếp theo đó nữa là Dị Duy-ma-cật kinh do Trúc Thúc Lan,
thực hiện dưới thời Tấn Huệ đế, niên hiệu Nguyên khang năm thứ 1 (291). Khoảng
trên dưới 10 năm sau, cũng trong thời Tấn Huệ đế, Sa môn Chi Mẫn Độ tập hợp hai
bản dịch trước đó, của Trúc Pháp Hộ và Trúc Thúc Lan, biên tập thành một hiệp
bản, tựa đề là Hiệp Duy-ma-cật kinh, 5 quyển. Như vậy, theo liệt kê của
Tăng Hựu, về các bản dịch cổ, hay được gọi là cựu dịch, trước sau có tất
cả 4 bản. Nếu kể luôn cả hiệp bản do Chi Mẫn Độ biên tập, có tất cả 5 bản.
[57]
Minh cú luận (s: Prasannapadā), gọi đủ là Trung quán minh cú luận
(s: Madhyamakavṛtti-prasannapadā), tác phẩm chú giải Trung quán luận
(Madhyamaka-śāstra) của Long Thụ (Nāgārjuna) duy nhất bằng nguyên văn Phạn ngữ
và Tây Tạng
[58]
Nguyệt Xứng 月
稱;
S: Candrakīrti; tk. 6-7; Luận sư quan trọng nhất của Trung quán tông sau Long
Thụ. Sư quê ở Nam Ấn, xuất gia từ lúc nhỏ tuổi. Nhân lúc đọc các bộ luận của
Long Thụ, Sư sáng rõ tâm ý. Sau Sư trở thành viện trưởng của Na-lan-đà và soạn
nhiều luận chú thích về các tác phẩm của Long Thụ. Các tác phẩm quan trọng của
sư là Minh cú luận (明 句 論), Nhập trung quán luận (入 中 觀 論). Khi hành hoá về phương Nam, Sư đã
giáo hoá rất nhiều người. Sư sống rất thọ, nhưng chắc chắn là không thọ đến 300
tuổi như sử sách Tây Tạng ghi nhận.
Các tác phẩm còn lưu lại của Sư
(trích): 1. Minh cú luận (s: Prasannapadā), gọi đủ là Trung quán minh cú
luận (s: Madhyamakavṛtti-prasannapadā), tác phẩm chú giải Trung quán luận
(Madhyamaka-śāstra) của Long Thụ (Nāgārjuna) duy nhất bằng nguyên văn Phạn ngữ
và Tây Tạng; 2. Nhập trung quán luận (Madhyamakāvatāra), chỉ còn bản Tạng ngữ;
3. Nhập trung luận thích (Madhyamakāvatāra-bhāṣya), chỉ còn bản Tạng ngữ; 4.
Nhân duyên tâm luận thích (Pratītya-samut-pāda-hṛdaya-vṛtti), một tác phẩm chú
giải Nhân duyên tâm luận tụng (Pratītyasamutpāda-hṛdaya-kā-rikā), được xem là
của Long Thụ, chỉ còn bản Tạng ngữ; 5. Thất thập không tính luận thích
(Śūn-yatā-saptativṛtti), chú giải Thất thập không tính luận (Śūnyatā-saptati)
của Long Thụ. Long Thụ (và Parahita) cũng có soạn một tác phẩm dưới tên này.
Chỉ còn bản Tạng ngữ; 6. Lục thập tụng như lí luận thích
(Yukti-ṣaṣṭhikā-vṛtti), luận giải Lục thập tụng như lí luận (Yukti-ṣaṣṭhikā),
một tác phẩm được xem là của Long Thụ, chỉ còn bản Tạng ngữ; 7. Bồ-tát du-già
hành tứ bách luận thích (Bodhi-sattvayogācāra-catuḥśataka-ṭīkā), chú thích bộ
Tứ bách luận (Catuḥśataka) của Thánh Thiên (Āryadeva), chỉ còn bản Tạng ngữ; 8.
Trung quán luận tụng (Madhyamaka-śāstra-stuti).
[59]
Đây là ghi nhận cho đến năm 1940: Phần Anh ngữ: chương 1-25, do Stcherbatsky
dịch năm 1927; Phần tiếng Pháp: chương 17, Lamotte dịch năm 1938; Phần tiếng
Đức: chương 5, 10, 12-16, do S. Schayer, dịch năm 1930-1.
[61] Triết học Trung quán Phật giáo. Ni sư Trí Hải đã dịch một phần, Định giá
hệ thống Trung quán, Tập san Tư tưởng Đại học Vạn Hạnh số 01, 1967.
[62]
E: direct transmission outside the Scriptures
[63]
Phật ngôn; e: Buddha-word.
The Aryan Path, July 1957, pp. 319-20.
[64]
Trong tác phẩm của B. L. Suzuki, Mahayana Buddhism, 3rd ed., 1959, p.
xi.
[65]
聖
天;
S: āryadeva; cũng được gọi là Ðề-bà, Ka-na Ðề-bà, Ðơn nhãn Ðề-bà (s: Kāṇadeva);
Học trò của Long Thụ (Nāgārjuna) và Ðại luận sư của Trung quán tông (s:
mādhya-mika), tác giả của nhiều bộ luận. Người ta cho rằng Thánh Thiên sinh
trong thế kỉ thứ 3 tại Tích Lan và là Tổ thứ 15 của Thiền Ấn Ðộ. Tương truyền Sư
bị ngoại đạo chống đạo Phật giết. Ngày nay, tác phẩm của Sư chỉ còn được giữ
lại trong các bản dịch tiếng Hán và Tây Tạng, phần lớn là các luận đề về giáo
pháp của Long Thụ. Truyền thống Tan-tra xem Sư là một trong 84 vị Ma-ha Tất-đạt
(s: mahāsiddha). Sư sinh ra trong một gia đình quý tộc tại Tích Lan. Thay vì
nhận chức làm quan thì Sư lại gia nhập Tăng-già dưới sự hướng dẫn của
Hermadeva. Sau khi học xong các thuyết luận, Sư đi hành hương, viếng thăm những
thánh tích của Phật giáo tại Ấn Ðộ. Nhân dịp này, Sư gặp Long Thụ và theo học
nhiều năm. Khi Long Thụ rời Na-lan-đà đi Trung Ấn, Sư cũng theo thầy. Dần dần,
Sư được truyền trao trách nhiệm giảng pháp và được xem là người kế vị Long Thụ.
Không rõ là Sư lưu lại Trung Ấn bao nhiêu lâu nhưng trong thời gian này, Sư có
thành lập nhiều tu viện. Nghe tin một luận sư lừng danh thuộc dòng Bà-la-môn
tung hoành tại viện Na-lan-đà và không một tỷ-khưu nào đủ tài năng đối đầu
tranh luận, Sư liền đến Na-lan-đà một lần nữa và chiến thắng vị Bà-la-môn trong
ba vòng tranh luận. Sau nhiều năm trụ tại Na-lan-đà, Sư trở về miền Nam và mất
tại Raṅganātha, Kiến-chí (kāñcī). Tác phẩm Tứ bách luận (catuḥśataka)
của Sư gồm 400 câu kệ, với suy luận biện chứng phủ định, giải thích giáo pháp Vô
ngã và tính Không. Tập Bách luận (śataśāstra) được xem là bản thu gọn lại của
Tứ bách luận, cũng gây ảnh hưởng lớn trong Phật giáo. Trong tập Bách luận,
Thánh Thiên đã đưa nhiều luận giải đối trị các quan điểm bài bác Phật giáo. Bách
luận là một tác phẩm căn bản của Tam luận tông tại Trung Quốc.
[66]
清
辯;
S: bhāvaviveka, bhavya; C: qīngbiàn; J: shōben; Luận sư quan trọng của Trung
quán tông (s: mādhyamika), sống khoảng giữa 490 và 570. Sư sinh tại Nam Ấn Ðộ,
theo học giáo lí của Long Thụ (nāgārjuna) tại Ma-kiệt-đà (magadha). Sau đó Sư
trở về quê hương và trở thành một luận sư danh tiếng. Trong các tác phẩm được
dịch ra chữ Hán và chữ Tây Tạng (phần lớn của nguyên bản Phạn ngữ đã thất
truyền), Duy thức tông (s: vijñānavāda, yogācāra) là đối tượng bị Sư chỉ trích.
Là người sáng lập hệ phái Trung quán-Y tự khởi (中 觀 依 自 起; mādhya-mika-svātantrika, cũng được
gọi là Độc lập luận chứng phái 獨 立 論 證 派), một trong hai trường phái của Trung quán, Sư cũng đả
kích Phật Hộ (s: buddhapālita), người sáng lập hệ phái Trung quán-Cụ duyên (中 觀 具 緣;
prāsaṅgika-mādhyamika) bằng một phương pháp suy luận biện chứng trên cơ sở Nhân
minh học (s: hetuvidyā), Nhận thức học (s: pramāṇavāda). Vào thế kỉ thứ 8, trường
phái của Sư được Tịch Hộ (s: śāntarakṣita) biến thành phái Trung quán-Duy thức
(mādhyami-ka-yogācāra).
Các trứ tác của Sư (trích): 1. Ðại
thừa chưởng trân luận (mahāyānatālaratnaśāstra), Huyền Trang dịch; 2. Bát-nhã
đăng luận thích (prajñāpradīpa, cũng có tên
prajñāpradīpa-mūlamadhyamaka-vṛtti), Ba-la-phả Mật-đa dịch; 3. Trung quán tâm
luận tụng (madhyamakahṛdayakārikā), Tạng ngữ; 4. Trung quán tâm quang minh biện
luận (madhyamaka-hṛdaya-vṛttitarkajvālā), chú giải Trung quán tâm luận tụng
(madhyamakahṛdayakārikā), Tạng ngữ; 5. Trung quán nhân duyên luận
(madhyamikapratītya-samutpāda-śāstra), Tạng ngữ; 6. Nhập trung quán đăng luận
(madhyamakāvatārapradīpa), Tạng ngữ; 7. Nhiếp trung quán nghĩa luận
(madhyamārtha-saṃgraha), còn bản Tạng ngữ và Phạn ngữ; 8. Dị bộ tông tinh thích
(nikāyabheda-vibhaṅgavyākhyāna), chỉ còn lưu lại trong Tạng ngữ, nói về các
tông phái phật giáo sau khi Phật diệt độ đến thời Thanh Biện, rất giống Dị bộ
tông luân luận (samayabhedavyū-hacakraśāstra) của Thế Hữu (vasumitra).
[67]
Maitreya-nātha: Di-lặc 彌 勒; S: Maitreya, P : metteyya; dịch nghĩa là Từ Thị (慈 氏),
cũng có tên là Vô Năng Thắng (無 能 勝; s, p: Ajita; A-dật-đa). Một vị Ðại Bồ-tát và cũng là vị
Phật thứ năm và cuối cùng sẽ xuất hiện trên trái đất. Trong Phật giáo Tây Tạng,
Phật Di-lặc được tôn thờ. Cõi giáo hoá của Ngài hiện nay là cõi trời Ðâu-suất
(s: tuṣita). Theo truyền thuyết, Phật Di-lặc sẽ giáng sinh trong khoảng 30.000
năm nữa. Tranh tượng mô tả Ngài ngồi trên mặt đất, biểu tượng sẵn sàng đứng dậy
đi giáo hoá chúng sinh. Tại Trung Quốc, Phật Di-lặc cũng được biểu tượng là một
vị mập tròn vui vẻ, trẻ con quấn quít xung quanh. Theo truyền thuyết thì đó
chính là hình ảnh của Bố Ðại Hoà thượng, một hoá thân của Di-lặc ở thế kỉ thứ
10. Nếu năm đức Phật xuất hiện trên trái đất nói trên được xem là hoá thân của
Ngũ Phật thì Phật Di-lặc được xem như hoá thân của Thành sở tác trí. Có thuyết
cho rằng, chính Ngài là người khởi xướng Ðại thừa Phật giáo hệ phái Duy thức.
Một số học giả cho rằng, vị này chính là Mai-tre-ya-na-tha (s: Maitreyanātha),
thầy truyền giáo lí Duy thức cho Vô Trước (s: Asaṅga). Truyền thống Phật giáo
Tây Tạng cho rằng, Ngài là tác giả của năm bài Luận (s: śāstra), được gọi là
Di-lặc (Từ Thị) ngũ luận: 1. Ðại thừa tối thượng tan-tra (s:
mahāyānottaratantra); 2. Pháp pháp tính phân biệt luận (s:
dharmadharmatāvibaṅga); 3. Trung biên phân biệt luận (s: madhyāntavibhāga-śāstra);
4. Hiện quán trang nghiêm luận (s: abhisamayālaṅkāra); 5. Ðại thừa kinh trang
nghiêm luận (s: mahāyānasūtralaṅkāra).
[68]
Hiện quán trang nghiêm luận (s: abhisamayālaṅkāra);
[70] s: Tantra; phiên âm là đát-đặc-la (怛 特 羅), nguyên nghĩa ‘tấm lưới dệt’, ‘mối liên
hệ’, ‘sự nối tiếp’, ‘liên tục thống nhất thể,’có nơi dịch là Nghi quĩ;
Đây là một danh từ trừu tượng, khó dịch nên phần lớn các ngôn ngữ trên thế giới
(Anh, Pháp, Ðức) đều không có từ tương ưng. Trong Phật giáo Tây Tạng, Tantra
chỉ tất cả các kinh sách về nhiều ngành khác nhau (Tantra y học, Tantra thiên
văn...), nhưng trong nghĩa hẹp, Tantra chỉ tất cả các sách vở nói về phép tu
thiền định của Kim cương thừa (Vajrayāna) và cũng được dùng để chỉ những phép
tu thiền định này. Phép tu tập Tantra có tính chất kinh nghiệm cá nhân, và thường
dựa trên ba khái niệm: Nhân, Ðạo, Quả. Nhân chính là hành giả, Ðạo là con đường,
phương pháp tu luyện, nhằm thanh lọc con người và Quả là tình trạng mà hành giả
chứng ngộ. Ba giai đoạn này được Tantra chỉ bày trong vô số phương tiện khác
nhau. Người ta cho rằng khi Phật Thích-ca thể hiện Phật quả qua dạng Pháp thân
(s: dharmakāya) thì Ngài đã hành trì Tantra. Vì vậy cũng có người xem Đức Phật
là người sáng lập Tantra. Có thể dùng từ tương đương để diễn tả là Mật tông,
nhưng ở đây, để tránh cho người đọc khỏi rơi vào những khái niệm có sẵn, chúng
tôi vẫn để nguyên từ Tantra. Những phép Tan-tra này xem tâm thanh tịnh
là gốc của mọi phép tu. Ngoài ra, Tan-tra xem việc vượt qua tính nhị nguyên để
đạt nhất thể là một nguyên lí quan trọng. Tính nhị nguyên có khi được Tan-tra
diễn tả bằng nguyên lí nam tính (s: upāya; khía cạnh Phương tiện) và nữ (s:
prajñā; Trí huệ), vì vậy tại phương Tây không ít người hiểu lầm, cho rằng tu
tập Tan-tra là thuần tuý liên hệ với tính dục nam nữ.
[71]
The Book of the Dead, 1927. Milarepa, 1928. Tibetan Yoga, 1935.
[72]
Kazi Dawa-Samdup, Śrīcakrasambhāra Tantra, pp. 1-68.
[73]
‘Ấn bản mở rộng lần thứ hai’ năm 1958 chưa đích thực là bản có sự cải thiện,
như tôi đã trình bày trong Oriental Art , vol. x, 1959, p. 31.
[74]
Hô kim cương tan-tra (s: hevajra-tantra).
Truyền thống Tây Tạng chia Tan-tra
làm bốn loại để tương ưng với căn cơ của từng người:
1. Tác tan-tra (s: kriyā-tantra):
Tan-tra hành động (tác), nghi lễ. Người tu tập Tan-tra này có kết đàn trường,
cúng dường, đọc chú, bắt ấn nhưng chưa quán tưởng, tu tập thiền định;
2. Hành tan-tra (s: caryā-tantra):
Tan-tra tu luyện qua hành động hằng ngày, dành cho những người tu tập nhưng
không cần hiểu rõ lí tột cùng;
3. Du-già tan-tra (s: yoga-tantra): Tan-tra luyện tâm (thiền định);
4. Vô thượng du-già tan-tra (s: anuttarayoga-tantra): phương pháp tu luyện
tột cùng, thành Phật trong kiếp này, với thân này.
Sự khác nhau giữa bốn cấp này xuất phát từ căn cơ của hành giả và tính hiệu
quả của các phép tu. Các tác phẩm quan trọng của Vô thượng du-già tan-tra là Bí
mật tập hội tan-tra (s: guhyasamāja-tantra), Hô kim cương tan-tra (s:
hevajra-tantra) và Thời luân tan-tra (s: kālacakra-tantra).
[75]
Old Stone Age.
[76]
Một bản toát yếu khác khó kiếm được xuất hiện trong Phi Theta Annual Papers
of the Oriental Languages Honor Society, University of California, III
(1952), pp. 51-82.
[77]
Buddhistische Mysterien. Còn có bản tiếng Pháp.
[78]
Tibetan Painted Scrolls. 3 quyển.
[79]
An Introduction to Tãntric Buddhism. Và: Obscure religious cults as
background of Bengali literature (1946).
[80]
Buddhist Himalaya.
Thiền sư Nhật Bản, một trong những
Thiền sư quan trọng nhất của tông Lâm Tế (j: Rinzai). Mặc dù dòng Lâm Tế đã có
từ lâu tại Nhật, nhưng Sư là người đã phục hưng, cải cách lại thiền phái này,
vốn đã bắt đầu tàn lụi từ thế kỉ thứ 14. Sư là người tổng kết lại các Công án
và nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc Toạ thiền vì Sư nhận thấy rằng nhiều
người đã ham thích suy tư về công án mà quên hẳn tu tập thiền định. Công án Thế
nào là tiếng vỗ của một bàn tay? của Sư là công án nổi tiếng nhất của một
Thiền sư Nhật. Con người thiên tài này không phải chỉ là một vị Thiền sư mà là
một hoạ, văn và nghệ sĩ tạc tượng xuất chúng. Các tranh mực tàu của Sư là những
kiệt tác của thiền hoạ Nhật
[82]
H. Dumoulin, Zen, 1959, pp. 259-62. Tác phẩm nầy đã được R. D. M. Shaw và
Wilhelm Schiffer dịch sang tiếng Anh, pp. 127. Monumenga Nipponica XIII,
957, pp. 127.
[83]
Oedipus Complex
[84]
Abhidharmakośa
[85]
Xem tác phẩm của tôi nhan đề Buddhist Scriptures, 1959, pp. 116–21.
[86]
不
動
佛;
S: akṣobhya; cũng được gọi theo âm Phạn ngữ là A-súc, A-súc-bệ Phật, A-sơ Phật;
Vị Phật giáo hoá ở Diệu Hỷ quốc (s: abhi-rati) phương Ðông. Mỗi cõi được xếp
vào một vị Phật với những tính chất nhất định.
[87] Tiểu bản A-di-đà.
[88]
Tr tác phẩm của ông nhan đề The Theory and practice of the Mandala, 1965.
[89]
Yuganaddha, the Tantric view of life. 1952.
[90]
Khác nhau biết bao giữa tinh thần và học thuật kinh viện! Khi tôi đề nghị với
một học giả đang nghiên cứu về Thời luân Tantra (s: kālacakra-tantra) rằng kiến
thức về khoa chiêm tinh học (astrology) có thể có ích cho ông, ông ta nghĩ rằng
tôi điên hoặc đang nói đùa!
[91]
Chi tiết, xin xem tác phẩm của tôi nhan đề A short history of Buddhism, 1960,
chap. III, 1 và 6.
[92]
Suzuki, Daisetsu Teitaro, Linh Mộc Ðại Chuyết 鈴 木 大 拙; J: suzuki, daisetsu [daisetz];
1870-1966; ;
Một học giả lừng danh người Nhật,
người đã góp công rất nhiều trong việc truyền bá Thiền tông sang Tây phương.
Ông viết rất nhiền sách về thiền và nổi danh nhất có lẽ là bộ Thiền luận
(Essays in Zen-Buddhism), gồm ba quyển. Ngoài ra, ông còn viết những tác phẩm
quan trọng như Nghiên cứu kinh Lăng-già (Studies in the Laṅkāvatāra-Sūtra), Thiền
và phân tâm học (Zen-Buddhism and Psychoanalysis).
Các tác phẩm quan trọng của Suzuki
(trích): 1. Essays in Zen Buddhism (Thiền luận), First-Third Series,
London 1950/1953; 2. Studies in the Lanka-vatara Sutra (Nghiên cứu kinh
Lăng-già), London 1930; 3. Introduction to Zen Buddhism (Thiền pháp nhập
môn), Kyoto 1931; 4. The Zen Doctrine of No-Mind (Giáo lí vô niệm),
London 1949; 5. Living by Zen (Thiền sinh hoạt), London 1950; 6. Zen-Buddhism
and Psychoanalysis (Thiền và Phân tâm học); 7. The Essence of Buddhism (Cốt tuỷ
của đạo Phật), London 1947; 8. Zen and Japanese Culture (Thiền và văn hoá
Nhật), Kyoto 1958; 9. Studies in Zen (Thiền bách đề), London 1955.
[93]
Ch’an (Zen) Buddhism in China: Its history and method. Philosophy East and
West, III, 1953, pp. 3–24.
[94]
Ibid. pp. 25–46. Được in lại trong Studies in Zen, pp. 129–64. Cuộc tranh luận
được quan tâm rất lớn nầy được tiếp tục trong tập san Philosophy East and
West cho đến năm 1956, với sự tham gia của P. Ames and Arthur Waley. Đó là
điều rất quan trọng cho toàn bộ vấn đề liên quan giữa cách tiếp cận với Phật
pháp mang tính lịch sử và tinh thần.
[96]
Xin đọc tác phẩm Beat Zen, Square Zen and Zen (1959) của Allan Watt
[97]
Cũng như vậy đối với các tác phẩm của Trương Trừng Cơ (Chen-chi Chang), The.
nature of Ch’an (Zen) Buddhism, Philosophy East and West VI 4, 1958. Dù nó
làm cho vài điểm đáng chú ý ngược lại nột số điều thông tục, bài viết nầy đã
tạo nên sự đúng đắn chủ yếu cho chính tác phẩm của Suzuki là hoàn toàn hiển
nhiên.
[98]
cây khô (họ đỗ quyên).
[99]
A short history of Buddhism, 1960, pp. 74-5. Buddhismo, 1958,
pp. 811-2.
[100]
Lâm Tế Nghĩa Huyền 臨 濟 義 玄: C: línjì yìxuán; J: rinzai gigen; ?-866/867; Thiền sư
Trung Quốc, là Tổ khai dòng thiền Lâm Tế. Sư là môn đệ xuất sắc nhất của Thiền
sư Hoàng Bá Hi Vận. Môn đệ danh tiếng đắc pháp của sư có Thiền sư Hưng Hoá Tồn
Tưởng, Tam Thánh Huệ Nhiên, Ðịnh Thượng Toạ. Sư khai sáng dòng thiền Lâm Tế
trong thời gian Phật giáo Trung Quốc đang bị đàn áp (842-845) và chính dòng này
đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt trong thời gian sau, trở thành môn phái quan
trọng nhất của Phật giáo Trung Quốc. Song song với dòng Tào Ðộng, dòng thiền
của Sư được truyền bá tại Nhật Bản cho đến ngày nay gần như dưới dạng nguyên
thuỷ. Sư tiếp nối truyền thống hoằng hoá của Mã Tổ Ðạo Nhất Thiền sư bằng cách
sử dụng tiếng hét ( Hát; j: Katsu!), gậy đập (Trúc bề; j: shippei, kyosaku) và
Phất tử (j: hossu). Cách hướng dẫn môn đệ của Sư là sự phối hợp và hoàn chỉnh
cách dạy của các vị tiền nhân kể từ Lục tổ Huệ Năng. Thành phần mới mà người ta
có nói là xuất phát từ dòng thiền này là phép quán Công án, một phương pháp gần
như dấu hiệu chính của thiền Lâm Tế và chính dòng thiền này đã giữ gìn truyền
thống đó cho đến ngày hôm nay.
[101]
The development of Chinese Zen, 2953 (First in German in 1941).
[102]
Zen Geschichte und Gestalt.
Một dòng thiền được liệt vào Ngũ
gia thất tông – tức là Thiền chính phái – được Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền sáng
lập. Tông này ngày nay là một trong hai tông của Thiền vẫn còn tồn tại ở Nhật
Bản song song với tông Tào Ðộng (j: sōtō-shū). Khoảng vài mươi năm đến bây giờ,
tông Lâm Tế được truyền bá rộng rãi đến phương Tây.
[104]
Fung
Yu-lan, A history of Chinese
philosophy, vol. II, 1953.
[105]
Thần Hội (Shen-hui, 668-760). Dịch sang tiếng Anh trong tập san Asia Major,
III, 1952, 132-35, và dịch sang tiếng Pháp do J. Gernet đang ở nhiều nơi. Huệ
Hải (khoảng năm 800), do J. Blofeld, dịch năm 1948, 1959. Vô Môn Quan
(Mumonkan) do G. H. Dumoulin, Monumenta Serica, dịch sang tiếng Đức (VIII,
1943, pp. 42-102).
[106]
Charles Luk, Ch’an and Zen Teaching, I, 1960.
[107]
pp. 192–193 bản dịch của tôi (1958).
[108]
Đôn Hoàng Thạch Quật, Còn gọi: Đôn Hoàng Thạch Thất. Đôn Hoàng là vùng đất ở
tận cùng phía Tây của dãy đất Hà Tây, Trung Quốc. Từ đời Hán trở đi, đây là nơi
giao thông trọng yếu giữa Trung Quốc và các nước ở Tây Vực. Tương truyền, động
đá ở vùng này có sớm nhất là do Sa Môn Lạc Tổn khai tạc vào đời Tiền Tần, năm
336. Về sau qua nhiều thời đại có khai tạc và xây dựng thêm, dần dần trở thành
nhóm động đá lớn trong hơn 10.000 động, nhưng đáng tiếc vì năm tháng quá lâu xa
nên bị cát trôi vùi lấp, hoặc bị phá huỷ, chỉ còn sót lại hơn vài trăm động. Hơn
nữa, từ đời Minh về sau, kỹ thuật hàng hải dần dần phát triển, con đường tơ lạu
bị đóng cửa, các động đá Đôn Hoàng do đó cũng ít được người đời biết đến.
Nói đến Động Thiên Phật ở Đôn
Hoàng là chỉ cho nhóm hang đá ở phía Đông chân núi Minh Sa. Động Thiên Phật còn
gọi là động Mạc Cao (Dmag-mgo), hang Thiên Phật, chùa Lôi Âm. Động này ở phía
Đông chân núi Minh Sa, cách huyện Đôn Hoàng về phía Đông Nam 20 km. Từ khi Sa
Môn Lạc Tổn khai tạc về sau, Sa Môn Pháp Lương, ông Đông Dương Vương và Lý
Quảng đời Đường,v.v… đều lần lượt khác tạc, xây dựng hang động, điêu khắc khám
thờ Phật, sửa chữa lầu gác, vẽ các bích hoạ; còn núi Minh Sa vốn cấu tạo bằng
cuội sỏi không dễ gì tự nhiên mà bị sụp
đổ. Đến năm 1879, ông L.de Losczy, Giám Đốc Sở Điều Tra Địa Chất Hungari đã tìm
thấy bức hoạ trong Động Thiên Phật ở phía đông chân núi Minh Sa; vì nghĩ là vật
báu nên sau khi trở về Châu Âu, ông bèn công bố với mọi người. Đó là bức hoạ
đầu tiên được phát hiện ở động Thiên Phật. Năm 1899, Đạo sĩ Vương Viên Lục phát
hiện 1 kho di vật văn hoá quý báu được cất giấu từ năm 1034 ở hang thứ 17 trong
động Thiên Phật. Từ đó, vùng đất này trở nên nổi tiếng. Sở Nghiên cứu Nghệ
Thuật Đôn Hoàng ở Trung Quốc được thành lập và Đôn Hoàng Học được xem là một bộ
môn trong các bộ môn học của thế giới.
Sự phát hiện động Đôn Hoàng là một
sự kiện lớn trong lịch sử khảo cổ học, vì trong đó có chứa đựng rất nhiều văn
hiến sử liệu quý giá về Phật giáo, văn học, lịch sử… chiếm địa vị quan trong về
mặt văn hoá, học thuật của Trung Quốc, không những có thể bổ túc cho phần thiếu
sót về văn hiến sử liệu trong thời gian 600 năm từ thời Bắc Nguỵ đến đời Bắc Tông
mà còn có thể giáo chính rất nhiều chỗ sai lầm trong kinh điển
Giới học giả hiện nay gọi Nghệ
Thuật Phật Giáo Đôn Hoàng gồm có các hang Du Lâm, động Tiểu Thiên Phật ở vùng
phụ cận huyện An Tây và động Tây Thiên Phật ở phía tây nam Đôn Hoàng.
Tông phái Thiền quan trọng tại Trung Quốc được hai vị Thiền sư sáng lập là
Ðộng Sơn Lương Giới và đệ tử là Tào Sơn Bản Tịch. Người ta ghép hai chữ đầu của
tên hai vị này và gọi là Tào Ðộng.
Mặc dù mục đích tu tập trong hai trường phái Lâm Tế và Tào Ðộng như nhau nhưng
phương pháp tu tập cụ thể thì có khác biệt. Tào Ðộng tông chú trọng đến phương
pháp Mặc chiếu thiền (j: mokushō-zen), tức là Chỉ quản đả toạ (j: shikan-taza),
Lâm Tế tông chủ trương phương pháp Khán thoại thiền (kanna-zen), là quán Công
án.
Trong thế kỉ 13, Thiền sư Nhật là Ðạo Nguyên Hi Huyền (j: dōgen kigen) đưa
tông này qua Nhật và Tào Ðộng trở thành môn phái Thiền quan trọng, ngày nay vẫn
còn. Trong tông Tào Ðộng tại Nhật, phương pháp Ðộc tham (dokusan) – một trong
những thành phần tối trọng của Thiền tông – đã thất truyền từ thời Minh Trị
(meiji).
Thiền Tào Ðộng được Thiền sư Thông Giác Thuỷ Nguyệt (1636-1704) truyền sang
Việt Nam giữa thế kỉ thứ 17. Sư rời Ðại Việt năm 1664, cùng với hai đệ tử sang
Trung Quốc, đến Hồ Châu học đạo với Thiền sư Nhất Cú Tri Giáo và ở đó ba năm
sau mới về. Thông Giác truyền giáo cho Chân Dung Tông Diễn và phái này hoạt
động ở Ðàng ngoài (miền Bắc), rất thịnh hành cuối thế kỉ 17 và đầu 18. Ðàng
trong (miền Trung), thiền Tào Ðộng do một Thiền sư Trung Quốc là Thạch Liêm
(1633-1704), hiệu Ðại Sán Hán Ông truyền dạy. Năm 1695, theo lời mời của chúa
Nguyễn Phúc Chu, Sư đến Thuận Hoá. Sư là người tổ chức giới đàn Thiền Lâm với
hàng ngàn người tham dự.
[112] Còn có tông Hoàng Bá (Obaku), tông phái
nhỏ, với 550 ngôi chùa. Để tiếp cận những nét đặc biệt của tông mầy, xin xem
Tetsugen (1630-2683), Sermon sur le Bouddhisme Zen, và M. Shibata, Presence
du Bouddhisme, France-Asie, 1959, pp. 633-53.
[113]
E: gentleness of spirit; J: nyunanshin.
[114]
R. Masunaga, The Sōtō
approach to Zen, 1958, có trong trang 81-192, trích từ bài viết của Thiền
sư Đạo Nguyên (Dogen). Chỉ có những bài viết giá trị là được dịch bởi R. T.
Leggett trong tác phẩm Buddhist Scriptures, (1959. pp. 134-44) của tôi.
[115]
Saddharmapularha-su1ran:, ed. U. Wogihara and C. Tsuchida (1958),
362—74.
[116]
Bản Hán: Niệm niệm vật sanh nghi. Quán Thế Âm tịnh thánh. Ư khổ não tử ách,
Năng vị tác y hộ.
[117]
E. Conze, The Gilgit Manuscript of the Asṭādaśasāhasrikāprajñāpāramitā (1962), 248.
[118]
Asṭādaśasāhasrikā Prajñāpāramitā, ed.
[119]
E: crossing over.
Chi tiết, xin xem I. B. Homer, The
Early Buddhist Theory of Man Perfected (5936).
[120]
S: Tārā: Phiên âm là đa-la 多 羅; dịch nghĩa là Ðộ mẫu (度 母), Duyên
độ mẫu (緣 度 母); Theo Phật giáo Tây Tạng, Ða-la là một hiện thân của
Bồ-tát Quán Thế Âm, sinh ra từ ‘nước mắt’ của Ngài để hỗ trợ chính pháp. Ða-la
là hiện thân dạng nữ nhân của lòng Từ bi và là một vị thần rất được Tây Tạng
tôn thờ. A-đề-sa là người đầu tiên thờ nữ thần Ða-la trong thế kỉ thứ 11 và kể
từ đó nữ thần này trở thành một Hộ Thần (t: yidam) của nhiều người Tây Tạng. Có
đến 21 dạng Ða-la, khác nhau về màu sắc, hình dáng, trang sức, hiện ra trong
dạng hiền từ hoặc dữ tợn. Màu sắc thông thường hay thấy của Ða-la là màu lục và
trắng. Hai phu nhân của vua Tùng-tán Cương-bố (t: songtsen gampo) trong thế kỉ
thứ 7 được xem là hiện thân của hai vị này.
[121]
Nhưng sau năm 750 stl. dưới ảnh hưởng của giáo lý về Ngũ trí Như Lai, Nữ thần
Lục Tārā (green Tārā) được
gán cho Bất Không Thành Tựu (Amoghasiddhi) (như trong tác phẩm Sādhanamālā, E. Conze dịch., Buddhist
Meditation (1956), 137), và VajraTārā (Kim cang Tārā) thành Vajrapaṇi
(Kim cang thủ), thuộc về A-sơ Phật bộ (Aksobhya). Vào khoảng cùng thời gian đó,
Tārā trở thành thuật ngữ chung chỉ cho ‘sự cứu độ,’ hoặc ‘nữ thần thủ
hộ,’ hoặc ‘nữ thần phước thiện,’ và điều nầy có kết quả rất mập mờ và gán cho
ngài một cá tính đích thực như thần Protean (biến hoá biệt các công hạnh mà ngài có thể thi tác,
trong khi số khác lại liên quan đến địa phương nơi có đền thờ ngài. Một trong
những danh sách anày là The book of Praises of the 25 forms of Tārā. Biên tập và dịch sang tiếng Đức do S. Hummel,
Lamaistische Studien (1950), 97-509.
[122]
Hummel 97, of the rab-tu dpa’-ba’i sgrol-ma.
[123]
The 108 Names of the Holy Tārā, trans. E. Conze, ed. Buddhist Texts (1954),
no. 176, p. 197. Những trích dẫn sau nầy cũng từ nguồn tư liệu đó.
[124]
Sādhanamālā trong tác phẩm của E. Conze, Buddhist Meditation (1956), 138-9.
[125]
Sarvajñamitra, Sragdharāstotram,
ed. S. Ch. Vidyabhushana (1908),
v.8.
[127] Xem Hobogirin, P. Demléville
(1929), 26; H. de Lubac, Amida (1955), 6.5-7; Buddhist Texts,
206. Tôi đã có chú thích về sự phân kỳ đang squan tâm giữa hai nguồn tư liệu
khác nhau, vốn chỉ đáng chú ý cho những nghiên cứu chuyên môn.
[128] Nguyện thứ 18: Lúc tôi thành Phật,
chúng sanh trong mười phương hết lòng tin mộ muốn sanh về nước tôi, nhẫn đến mười
niỆm, nếu không được sanh, thời tôi không ở ngôi chánh giác, trừ kẻ tạo tội ngũ
nghịch và hủy báng chánh pháp.
[129]
Tán dị sao (Tannisho) Higashi Honganji dịch năm (1961), 2, 6, 33, 43.
[130] E. Conze, Buddhism (1951),
205; H. de Lubac, Amida (1955). 63.
[132] Như Winston L. King cũng đã diễn tả về
giáo lý Thượng toạ bộ (Theravāda) trong một tác phẩm vừa mới được ấn hành: ‘Đức
Phật không phải là một bậc cứu độ trong ý nghĩa tôn giáo. Vì con người không
thể nào gửi thẳng đến ngài lời cầu nguyện, nói rằng ‘xin cứu vớt con!’ Cũng
chẳng cúng dường đến ngài để ‘vừa lòng’ ngài. Cũng không mong đợi ân huệ phát
ra từ ngài cũng chẳng nếm trải tình thương của ngài.’ Về những giải thích rộng
hơn về quan điểm của Thượng toạ bộ (Theravāda), xin xem Devotion in Buddhism,
Buddhist Publication Society (i960), Kandy, Ceylon.
[133]* Chánh hạnh và trợ hạnh.
[134] Dù cho nếu chúng ta đi sâu hơn vào những
điều nầy, nó cũng sẽ trở nên phức tạp hơn. Con của Thượng đế (Son of God) còn
được gọi là Con của loài người (Son of Man), và Đức Phật, con người, cũng được
biết như là ‘Thượng đế trên tất cả các Thượng đế.’
[135]*
S: Jhāpeti, E: funeral pyre. Lễ hoả táng tử thi, đặc biệt là của tỷ-khưu tăng
hay ni.
[136]
Xem tác phẩm của tôi, Buddhist Thought in India (1962), 27.
[137]
E: Relic: s: śarīra,p: sarīra,t: lus、riṅ-bsrel、ḥphel-gduṅ. Phần tinh
tuý không cháy, còn lại sau khi hỏa thiêu trong lễ trà-tì.
[138]
Caitya: Tháp thờ xá-lợi Phật.
[139]
Bodhitree: Tên khoa học pippala,Pāli: assattha. Hán phiên âm tất-bát-la
thụ 畢鉢羅樹.
Đức Phật thành đạo sau khi ngồi thiền suốt 49 ngày đêm dưới cây nầy. Từ
đó, cây nầy được gọi tên như vậy.
[140]
sGampopa. The Jewel Ornament of Liberation, H. V. Guenther dịch, (1959),
103 sq.
[141]
Thực tế các ngài đã áp dụng ba tác dụng của Bậc Thánh (Blessed Lord) được nêu
trong Chí Tôn Ca (Bhagavadgīta,
IV, 8. )
[142]
Nội dung chi tiết hơn về cùng phạm vi nầy là Kinh Mahā-Karmavibhanga, S. Levi biên
tập và dịch năm 1932.
[143]
S. Levi, 253-5, 269-70, 176.
[144]
Ibid., 254-5.
[145]
Xem thêm Apadāna,
336, về kết quả vi diệu (acchariyam) của một niệm thành kính.
[146]
Viễn hành địa (遠 行 地; dūraṅgamā-bhūmi):; E: celestial Bodhisattva. Một trong mười quả vị tu chứng (Thập địa 十 地; S:
daśabhūmi) của các vị Bồ Tát. Đạt tới cảnh giới Viễn hành địa này, Bồ-tát
có đầy đủ khả năng, có mọi phương tiện (upāya) để giáo hoá chúng sinh. Ðây là
giai đoạn mà Bồ-tát tuỳ ý xuất hiện trong một dạng bất kì.
[147]
Har Dayal, The Bodhisattva doctrine in Buddhist Sanskrit Literature
(1932), 188-93; Buddhist Texts no. 128.
[148]
Những chi tiết đầy đủ, xin xem H. Denzinger, Enchiridion Symbolorum. Và
H. Bechert, Bruchstücke
buddhistischer Versammlungen I, (1961), 38-9.
[149]
Một mô tả đầy chất thơ và đẹp của Nguyện là Phổ Hiền nguyện vương (Samantabhadracaryāpraṇidhānarāja), nay được biên tập với
tính phê phán của S. Devi (1958).
[150]
Daśabhūmikasūtra, J. Rahder biên tập, (1926),
73-81.
[151]
Buddhist Scriptures, E. Conze dịch năm 1959, 121-33.
[152]
Hán: Như huyễn định. Như huyễn chư tam-muội (theo kinh Lăng-già).
[153]
Thuận lợi và bất lợi của hai khuynh hướng đã được thảo luận kỹ do Chr.
Humphreys trong Young East (1961), 2—4. Điểm nổi bật đáng chú ý trong
phạm trù nầy là nghiên cứu của D. T. Suzuki, đặc biệt là A Miscellany on the
Shin Teaching of Buddhism (I99); Mysticism, Christian and Buddhist
(1957), 161—214; The Eastern Buddhist, III (1925), 285—326, and VII,
2—58 (offprint).
[154]
Buddhist Thought in India, 47—51.
[155]
Hán: Vô tác, vô phân biệt, vô tác dụng, vô sinh khởi, vô tham trước bất phân
biệt.
[156]
Saddharmapuṇḍarika,
V, v. i8.
[157]
Xem Kinh Pháp cú (Dhammapada, 276) . Và trong Kinh Trung A-hàm M. N.,
iii, 6, ‘Người chỉ bày con đường chính là Như Lai.’ Cũng xem trong kinh Pháp
Hoa (Saddharmapuṇḍarika,
V, 115, . 20-1).
[159]
Dighanikaya, in E. Waldschmidt, Das Mahā parinirvāṇa sūtra (1951), 200. Dù điều nầy
ít nhiều tin tưởng khi ngữ cảnh và đoạn chuyển tiếp được xem xét đến. Miss I.
B. Homer cho chúng ta biết rằng các đoạn kinh sau cũng có liên quan: A, i, 18g,
ii, ig, ; S, iii, 108—g, IV, 179—81, A, ii, 5—6, Iti. 113—15, Sn. 1053, 1064,
Dhp. 168—9.
[160]
das ganz Andere: (Chân lý) nằm bên kia
rặng núi Andes. Ngạn ngữ của người Pháp.
[161]
Nguyệt Xứng (Candrakīrti), Minh
cú luận (Prasannapadā),
XVI v. g.
[162]
Chr. Humphreys, Young East (1961), 4.
[163]
Amida (1955).
[164]
Luther’s Religion und ihre Enisprechung im japanischen Amida Buddhismus,
n.d. (c. 2950?).
[165]
Lutheran Church 路德教會
[166]
Thái độ ôn hoà Suzuki trình bày trong Mysticism, Christian and Buddhist
(1957), 136: ‘Christ bị đóng đinh là một hình ảnh khủng khiếp và tôi không thể
nào kết hợp được với sự bốc đồng tàn bạo của ảnh hưởng tinh thần lên não
trạng.’
[167] E. Conze, Buddhist Scriptures
(1959), 24—6.
[169] Tát-đà-ba-luân Bồ-tát. Cũng gọi:
Phổ Từ Bồ-tát , Thường Bi Bồ-tát .
Vị Bồ-tát được nói trong kinh Đại
Phẩm Bát-nhã quyển 27. Lí do tại sao vị Bồ-tát
này đựoc gọi là Thường Đề (thường hay
khóc) thì có nhiều thuyết khác nhau: Có thuyết cho rằng vì thấy con người sống
trong ác trược phải chịu khổ não nên Bồ-tát
xót thương mà khóc, có thuyết cho rằng vì sinh vào thời đại không có Phật,
nhưng vì lợi ích chúng sinh mà tìm cầu Phật đạo nên Bồ-tát buồn rầu than khóc
suốt 7 ngày đêm trong rừng vắng vẻ, thiên long quỷ thần cho rằng thuở nhỏ Bồ-tát
hay khóc nên đặt tên là Thường Đề. Vị
Bồ-tát này thường dùng tâm mạnh mẽ tu
hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Theo phẩm
Tát-đà-ba-luân Bồ-tát trong kinh Đại
Hành Bát-nhã quyển 9, trong giấc
mộng, Bồ-tát Thường Đề nghe ở phương Đông có Đại Pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa. liền đi về hướng Đông cầu pháp,
trải qua 2 vạn dặm thì đến nước Kiện-đà-việt (Dharmodgata) và được pháp của
Ngài. Kiện-đà-việt ở đây là chỉ cho
Kiện-đà-la (Gandhara) ở Bắc Ấn Độ. Còn trước khi Luận Tỳ-bà-sa được biên soạn
thì Bát-nhã đã được lưu hành ở vùng Kiện-đà-la;
y cứ vào sự thực này mà suy cứu thì Bồ-tát
có khả năng là một nhân vật có thật, và Bồ-tát Thường Đề đã từ phía Tây Ấn Độ xa xôi đến Kiện-đà-la
cầu pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lại vị Bồ-tát
này vì lợi ích chúng sanh mà trải qua
nhiều gian khổ để cầu Bát-nhã
ba-la-mật-đa , cho nên được xếp vào 1 trong 16 vị thiện thần giữ gìn
Bát-nhã.
[170]
* The Lamb (of God).
[171]
Dravidien:
[172]
Hellenien: (Hellenistic philosophy) Triết học Hy lạp cổ đại. Giai đoạn triết
học Hy lạp từ sau cái chết của Alexandre Đại đế 323 ttl. cho đến ngày La mã sụp
đổ năm 31 stl. Nói chung, gồm các phong trào triết học chính trong giai đoạn
nầy là Phái khắc kỷ (Stoicism), Chủ nghĩa khoái lạc (Epicureanism), và thuyết
hoài nghi (Skepticisme).
[173]
Achilles: n. Anh hùng trong thiên sử thi Iliad của Homer. Trong cuộc
chiến tranh Trojan. Bị giết chết khi bị thương ở gót chân. (Thần thoại Hy lạp.)
[174]
Ðạo sư 導
師;
S: guru; T: lama; cũng có khi được dịch theo âm Hán Việt là Cổ-lỗ, nghĩa là Sư
phụ, vị thầy dạy đạo. Theo một ý nghĩa riêng biệt nên dịch chữ Guru là
Chân sư (真
師),
nếu hiểu Chân sư ở đây đồng nghĩa với một vị thầy có đầy đủ những khả năng,
thích hợp cho những môn đệ khác nhau, có thể nói là tuỳ cơ ứng biến, tuỳ chứng
phát dược.
Dịch âm từ tiếng Phạn icchantika;
dịch ý là Đoạn thiện căn 斷 善 根), là người phá bỏ mọi căn lành của
mình, hoặc Tín bất cụ túc (信 不 具 足), là người không có đủ niềm tin vào Phật pháp. Người đã
tiệt đoạn những căn lành và vì vậy, khó được cứu độ. Dù họ có tu tập tinh cần
đến mức nào, họ cung không thể nào đạt giải thoát.
Thuật ngữ icchan nguyên đề
cập đến người thường có tâm trạng ham muốn dục lạc. Ở Ấn Độ, từ nầy đề cập đến
những người theo chủ nghĩa hưởng lạc hoặc là những kẻ ham muốn đời sống thế
tục. Trong Phật pháp, từ nầy nói đến những người thiếu những nhân duyên tu tập
căn bản để thành Phật. Giáo lí này do
Du-già hành tông chủ trương. Các tông phái Phật giáo khác như Thiên
Thai, Hoa Nghiêm phản bác thuyết này, cho rằng tất cả mọi chúng sinh đều có thể
thành Phật. Thuyết nầy trở thành đầu mối của những cuộc tranh luận trong giới
Phật học Á Đông sau này
[176]
Gnosticism n. giáo lý cựu Cơ-đốc
giáo nhấn mạnh rằng sự cứu độ có được bằng
tự học hỏi chân lý tâm linh để giải thoát con người khỏi thế giới vật
chất; khuynh hướng tín ngưỡng chấp nhận gnosis như là cách thoát khỏi
yếu tố tâm linh của con người.
Gnostic: phái trực quan hay
Duy trí.
[177]
Manichaens: Ma-ni giáo. Đạo thờ lửa, xuất phát từ nước Ba tư (Persia)
[178]
Śāntideva: Tịch Thiên 寂 天; S: śāntideva; Cao tăng thuộc phái Trung quán. Truyền
thuyết cho rằng Sư là một vương tử miền Nam Ấn Ðộ, sống trong thế kỉ thứ 7, 8,
và hoạt động tại viện Na-lan-đà. Sư là tác giả của hai tác phẩm quan trọng là (Ðại
thừa) Tập Bồ-tát học luận (s: śikṣāsamuccaya) và Nhập bồ-đề hành
luận (bodhicaryāvatāra). Một tác phẩm thứ ba cũng thường được nhắc đến là Tập
kinh luận (s: sūtrasamuccaya) đã thất truyền (theo Thánh Nghiêm thì
được dịch ra Hán ngữ dưới tên Ðại thừa thật yếu nghĩa luận). Nhập
bồ-đề hành luận rất thông dụng trong Phật giáo Tây Tạng, là kinh điển giáo
khoa.
Nhập bồ-đề hành luận trình
bày các bước tu học vị Bồ Tát, từ lúc phát Bồ-đề tâm (bodhicitta) cho đến lúc
đạt trí Bát-nhã (prajñā), dựa trên Lục độ (pāramitā). Nhập bồ-đề hành luận là
tác phẩm nhằm hướng dẫn cho Cư sĩ hay người mới nhập môn. Tịch Thiên giảng giải
trong tác phẩm này hai phương pháp nhằm giúp vị Bồ-tát tương lai nhận biết tại
sao mình lại cứu độ cho người và xuất phát từ đó các hành động cần thiết. Một
mặt hành giả phải tu học phép quán chiếu nhất thể giữa mình và người (parātmasamatā),
mặt khác phải học phép hoán đổi mình và người (parātmaparivartana,
xem thêm Bất hại) giữa, tức là đặt mình vào địa vị của chúng sinh để thấu rõ
tâm trạng của Hữu tình (s: sattva).
[179]
Chất hocmon khiến cho máu bơm mạnh hơn
Một phần độc lập của Ðại phương
quảng Phật hoa nghiêm kinh (s: buddhāvataṃsaka-sūtra) do Bồ-tát Kim Cương
Tạng (s: vajra-garbha) trình bày với Ðức Phật về các giai đoạn tu chứng. Một
bài luận quan trọng của Thế Thân (s: Vasubandhu) về Thập địa được Bồ-đề Lưu-chi
(Bodhiruci) dịch ra chữ Hán, đã trở thành kinh sách cơ bản của Ðịa luận tông,
một tông phái cổ của Phật giáo Trung Quốc.
[181]*
Thập địa 十
地;
S: daśabhūmi; Mười quả vị tu chứng của các vị Bồ Tát. Có nhiều hệ thống khác
nhau nhưng theo Bồ-tát địa (菩 薩 地; s: bodhisattva-bhūmi) và Thập địa kinh (十 地 經; s:
daśabhūmika-sūtra) thì Thập địa gồm:
1. Hoan hỉ địa (歡 喜 地;
pramuditā-bhūmi): Ðắc quả này Bồ-tát rất hoan hỉ trên đường Giác ngộ (bodhi).
Bồ-tát đã phát Bồ-đề tâm và thệ nguyện cứu độ tất cả các chúng sinh thoát khỏi
Luân hồi (saṃsāra), không còn nghĩ tới mình, Bố thí (dāna) không cầu phúc và
chứng được tính Vô ngã (a-nātman) của tất cả các Pháp (dharma).
2. Li cấu địa (離 垢 地;
vimalā-bhūmi): Bồ-tát giữ Giới (śīla) và thực hiện thiền định (dhyāna,
samādhi).
3. Phát quang địa (發 光 地;
prabhākārī-bhū-mi): Bồ-tát chứng được quy luật Vô thường (anitya), tu trì tâm
Nhẫn nhục (kṣānti) khi gặp chướng ngại trong việc cứu độ tất cả chúng sinh. Ðể
đạt đến cấp này, Bồ-tát phải diệt trừ Ba độc là tham, sân, si, thực hiện được
bốn cấp định an chỉ (dhyāna) của Bốn xứ và chứng đạt năm thành phần trong Lục
thông (abhijñā).
4. Diệm huệ địa (燄 慧 地;
arciṣmatī-bhūmi): Bồ-tát đốt hết tất cả những quan niệm sai lầm, tu tập trí
huệ, Bát-nhã (prajñā) và 37 Bồ-đề phần (bodhipākṣika-dharma).
5. Cực nan thắng địa (極 難 勝 地;
sudurjayā-bhūmi): Bồ-tát nhập định, đạt trí huệ, nhờ đó liễu ngộ Tứ diệu đế và
Chân như, tiêu diệt nghi ngờ và biết phân biệt. Bồ-tát tiếp tục hành trì 37
giác chi.
6. Hiện tiền địa (現 前 地;
abhimukhī-bhūmi): Bồ-tát liễu ngộ mọi pháp là vô ngã, ngộ lí Mười hai nhân
duyên và chuyển hoá trí phân biệt thành trí bát-nhã, nhận thức tính Không.
Trong xứ này, Bồ-tát đã đạt đến trí huệ Bồ-đề (bodhi) và có thể nhập Niết-bàn
thường trụ (pratiṣṭhita-nirvāṇa). Vì lòng từ bi đối với chúng sinh, Bồ-tát lưu
lại trong thế gian, nhưng không bị sinh tử ràng buộc, đó là Niết-bàn vô trụ
(apratiṣṭhita-nirvāṇa).
7. Viễn hành địa (遠 行 地;
dūraṅgamā-bhū-mi): đạt tới cảnh giới này, Bồ-tát đầy đủ khả năng, có mọi phương
tiện (upāya) để giáo hoá chúng sinh. Ðây là giai đoạn mà Bồ-tát tuỳ ý xuất hiện
trong một dạng bất kì.
8. Bất động địa (不 動 地;
acalā-bhūmi): trong giai đoạn này, không còn bất kì cảnh ngộ gì làm Bồ-tát dao
động. Bồ-tát đã biết lúc nào mình đạt Phật quả.
9. Thiện huệ địa (善 慧 地;
sādhumatī-bhūmi): Trí huệ Bồ-tát viên mãn, đạt Mười lực (daśabala), Lục thông
(ṣaḍabhijñā), Bốn tự tín, Tám giải thoát. Biết rõ cơ sở mọi giáo pháp và giảng
dạy giáo pháp.
10. Pháp vân địa (法 雲 地;
dharmameghā-bhū-mi): Bồ-tát đạt Nhất thiết trí (sarvajñatā), đại hạnh. Pháp thân
của Bồ-tát đã đạt tới mức viên mãn. Ngài ngự trên toà sen với vô số Bồ-tát
chung quanh trong cung trời Ðâu-suất. Phật quả của Ngài đã được chư Phật ấn
chứng. Những Bồ-tát đạt cấp này là Di-lặc (maitreya), Quán Thế Âm
(avalo-kiteśvara) và Văn-thù (mañjuśrī).
[182]
Nhân vật trong thần thoại Hy lạp
[183]
n. sacred Scriptures of the Zoroastrian religion.
[184]
S iii. 120.
[185]
Bản dịch tiếng Hán của ngài Huyền Trang gần tương đương với ý nầy.
T07n0220_p0985a23║ 諸以色觀我 以音聲尋我
T07n0220_p0985a24║ 彼生履邪斷 不能當見我
T07n0220_p0985a25║ 應觀佛法性 即導師法身
T07n0220_p0985a26║ 法性非所識 故彼不能了
[186]
*Kinh Pháp Hoa, phẩm Như Lai thọ lượng thứ 16.
[187]*
Bảy đức Phật quá khứ: 七 佛; C: qīfó; J: shichibutsu; S: sapta-ta¬thā¬gata. Gồm Đức Phật
→ Thích-ca Mâu-ni (釋 迦 牟 尼) và sáu vị Phật tiền bối: 1. Tì-bà-thi Phật (毘 婆 尸 佛; s:
vi-paśyin; p: vipassin), 2. Thi-khí Phật (尸 棄 佛; s: śikhin; p: sikkhin), 3.
Tì-xá-phù Phật (毘
舎
浮
佛;
s: viśvabhū; p: vessabhū), 4. Câu-lưu-tôn Phật (拘 留 孫 佛; s: kraku¬c¬chanda; p: kondañña), 5.
Câu-na-hàm Mâu-ni Phật (拘 那 含 牟 尼 佛; s: kanakamuni; p: konāgamana) và 6. Ca-diếp Phật (迦 葉 佛; s:
kāśyapa; p: kassapa).
[188]
*貴霜王朝 Kushan、Kuṣāṇa
[189]
S: Trikāya:
[190]
Còn gọi Ứng thân.
[191]
Còn gọi Báo thân.
[192]
Ðạt-lại Lạt-ma 達
賴
喇
嘛;
T: dalai lama [da lai bla ma]; nghĩa là Ðạo sư với trí huệ như biển cả.
Danh hiệu do nhà vua Mông Cổ Altan Khan phong cho phương trượng của trường phái
→ Cách-lỗ (t: gelug¬pa, Hoàng giáo) năm 1578. Kể từ 1617, Ðạt-lại Lạt-ma thứ 5
trở thành người lĩnh đạo chính trị và tinh thần của Tây tạng. Kể từ đây, người
ta xem Ðạt-lại Lạt-ma là hiện thân của → Quán Thế Âm và → Ban-thiền Lạt-ma
(Panchen Lama) là người phụ chính. Mỗi một Ðạt-lại Lạt-ma được xem là tái sinh
của vị Lạt-ma trước. Ðạt-lại Lạt-ma thứ 6 là vị có trình độ học thuật rất cao
thâm và cũng là một nhà thơ. Vị Ðạt-lại Lạt-ma hiện nay là vị thứ 14, sống lưu
vong tại Ấn Ðộ từ 1959 đến nay. Sư là người lãnh giải Nobel Hoà bình, đồng thời
là người đại diện Phật giáo xuất sắc nhất hiện nay trên thế giới.
[193]*
Kinh Kim Cang: Như Lai thuyết pháp, Như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà
huống phi pháp.
[194]* Tiểu phẩm Bát-nhã 1 (T8n027, tr. 540c18).
[195] Nālanda: Na-lan-đà 那 爛 陀; Viện Phật học danh tiếng của Ấn Ðộ, được
vua Thước-ca-la Dật-đa (s: śakrāditya) thành lập trong thế kỉ thứ hai, một nhà
vua nước Ma-kiệt-đà. Dần dần Na-lan-đà trở thành nơi
của các luận sư nổi tiếng của Trung quán tông và Duy thức tông giảng dạy. Các vị này đều lần lượt
làm viện trưởng. Na-lan-đà lúc đông nhất có đến mười ngàn học viên. Các khách
phương xa như Huyền Trang, Pháp Hiển, Nghĩa Tịnh đều đến nơi
đây tu học. Na-lan-đà là nơi giáo hoá của đạo Phật, hưng thịnh được 1000 năm.
Tại Tây Tạng, một học viện cũng được đặt tên là Na-lan-đà và được xây dựng năm
1351. Theo ngài Huyền Trang và ngài Nghĩa Tịnh thì trong thời cực thịnh có đến 10
000 tăng sĩ học tại Na-lan-đà. Các vị đó học giáo pháp Tiểu
thừa, Ðại thừa, Nhân minh học, toán học, y khoa. Những vị giảng sư danh tiếng
đã từng dạy đây là Long Thụ (s: nāgārjuna), Hộ Pháp
(s: dharmapāla), Trần-na (s: dignāga), Giới Hiền (s:
śīlabhadra), Huyền Trang, An Huệ (sthiramati) giảng dạy. Tương truyền
Na-lan-đà bị tín đồ của Hồi giáo phá huỷ trong thế kỉ 12, 13.
[196]
belief in supernatural forces to heal...
[197] Lãng-đạt-ma (t: lang¬darma)
(836-842).
[198] Pháp nhĩ như thị.
[199] Immanuel Kant là người con thứ tư
của Johann Georg Kant (1683–1746), Nhà siêu hình học Ðức, một trong những khuôn
mặt vĩ đại nhất trong triết học. Tên đầy đủ Emmanuel Kant. Ông chào đời tại
Konigsberg, lúc đó là Phổ, nay là Kaliningrad thuộc Nga. Ông theo học và gần như
sống suốt đời ở đó. Bắt đầu làm gia sư cho vài gia đình, tới sau năm 1775, ông
giảng dạy tại Ðại học Konigsberg về triết học cùng vài môn khoa học khác nhau.
Tới năm 1770, ông nhận được qui chế giáo sư luận lý học cùng siêu hình học, và
nổi tiếng rộng rãi qua các bài giảng và bài viết. Các tác phẩm xuất bản sớm sủa
của Kant thuộc lãnh vực khoa học tự nhiên, cách riêng thiên văn học và khoa học
vật lý. Suốt cuộc đời mình, ông xuất bản rất nhiều tác phẩm với các đề tài
trong một phạm vi rộng lớn. Cuốn đầu tay phản ánh những nghiên cứu của ông về
Christian von Wolff (1679–1754), và Leibniz, được tiếp theo bằng một giai đoạn
triển khai, cuối cùng đạt kết quả trong Critique of Pure Reason (Phê phán lí
tính thuần túy, 1781). Tác phẩm cung cấp các luận cứ đánh phá chủ nghĩa duy
nghiệm của Hume và trở thành kinh điển ấy, đánh dấu cho cái được hậu thế gọi là
‘giai đoạn chủ chốt’ với những văn bản chính. Trong số đó, những cuốn quan
trọng gồm Prolegomena to Future Metaphysics (Lời giới thiệu siêu hình học tương
lai, 1783), Foundations of the Metaphysics of Ethics (Cơ sở siêu hình học của
đạo đức học, 1785), Critique of Practical Reason (Phê phán lí tính thực tiễn,
1788), và Critique of Judgment (Phê phán óc suy xét, 1790). Cuốn Religion
within the Limits of Reason Alone (Tôn giáo trong các giới hạn của riêng lý
trí, 1793), kích động lệnh của chính phủ cấm không cho ông xuất bản thêm sách
về tôn giáo. Ông còn viết về chính trị học, và cuốn Perpetual Peace (Hòa bình
vĩnh cửu, 1795) cổ vũ một hệ thống toàn cầu của các quốc gia tự do.
[200] Geogre Berkeley (1658-1753). Người
Ireland. Chủ trương chủ nghĩa lý tưởng. Lập luận của ông là không có những khác biệt về bản chất giữa các
trạng thái tinh thần, như là cảm thấy đau đớn, và những gợi ý từ các giác quan.
Không có một thứ gì có thể phân biệt được, ví dụ, giữa độ nóng của một đống
lửa, và nỗi đau nó tạo ra cho chúng ta. "Trạng thái" chúng ta cảm
nhận chứa trong đó tính chất "được cảm nhận" của nó (esse của
nó là percipi), và ý kiến "phổ biến một cách lạ lùng trong loài người"
rằng nhà cửa, sông núi và sông suối tồn tại độc lập trước khi bất kì ai cảm đó
cảm nhận chúng, là sai.
[202]
Nguyên nghĩa tiếng Latin, chỉ cho tri thức (wisdom).
[203]
of the earlier Stone Age.
[204]
anima (fr.) n. anima, feminine part of the male personality (according to
Jungian psychology);
[205]
Phẩm Phổ môn.
[206]
Bất Động Phật 不
動
佛;
S: akṣobhya; cũng được gọi theo âm Phạn ngữ là A-súc, A-súc-bệ Phật, A-sơ Phật;
Vị Phật giáo hoá ở Ðiều hỉ quốc (s:
abhi-rati) phương Ðông.
[207]
Pala:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét