TRIẾT HỌC NHƯ LAI TẠNG
Nguyên
tác: Pháp sư Ấn Thuận
Chuyển ngữ: Tỳ-kheo Thích Nhuận Thịnh
CHƯƠNG 8. SỰ QUYẾT
TRẠCH VỀ NHƯ LAI TẠNG VÀ PHẬT TÁNH
1. Thuyết Như lai tạng của
kinh Lăng-già
Kinh Lăng-già
có tổng cộng 3 bản dịch, bản do Cầu-na-bạt-đà-la (Guṇabhadra) dịch vào
năm Nguyên Hi (khoảng năm 440 A.D.) đời Tống, gọi là Lăng-già a-bạt-đa-la bảo
kinh, 4 quyển. Trong những luận thư của Vô trước (Asaṅga), Thế thân (Vasubandhu),
thì vẫn không có dẫn chứng bộ kinh này, cho nên sự biên tập của kinh này vào
khoảng cuối thế kỷ 4 A.D.
1. Như lai tạng
và ngã: kinh Lăng-già và học pháp Du-già (Yoga) có mối quan hệ vô cùng gần
gũi, nếu như có cái sai biệt nào, thì đó chính là nhận thức về thuyết Như lai tạng
(tathāgata-garbha). Các học giả Du-già căn cứ vào sự không có phân biệt của
chân như thanh tịnh, giải thích Như lai tạng ở trong kinh; kinh Lăng-già
cũng nói như vậy, nhưng có trình bày thêm một bước về nghĩa căn bản của Như lai
tạng. Như Lăng-già a-bạt-đa-la bảo kinh(I)
nói:
“Trong tu-đa-la,
đức Thế tôn nói: tự tánh của Như lai tạng là thanh tịnh, chuyển thành 32 tướng,
nhập vào trong thân tất cả chúng sanh. Giống như viên ngọc có giá trị lớn được
buộc trong chiếc áo dơ, tạng của Như lai luôn thường trụ, bất biến cũng như vậy,
nhưng bị buộc vào trong chiếc áo dơ ấm giới, bị tham dục, nhuế, si, những vọng
tưởng trần lao không thật làm ô nhiễm. … Vì sao đức Thế tôn, cũng giống như ngoại
đạo, nói có Như lai tạng vậy? Bạch Thế tôn! Ngoại đạo cũng nói có ‘kẻ tạo tác’
thường hằng, lìa cầu-na, có mặt khắp nơi, bất diệt.”
“Này Đại Huệ! Ta
nói Như lai tạng, không giống với cái ngã do ngoại đạo nói. Này Đại Huệ! Có lúc
nói là không, vô tướng, vô nguyện, như, thật tế, pháp tánh, pháp thân, niết-bàn…,
các cú [từ] như vậy là nói về Như lai tạng mà thôi, Như lai Ứng cúng Chánh đẳng
giác vì nhằm trừ bỏ nỗi sợ của kẻ phàm phu ngu si về cú [từ] vô ngã nên nói đến
môn Như lai tạng – cảnh giới lìa vọng tưởng, vô sở hữu. … Nhằm khai mở và dẫn dắt
các ngoại đạo chấp về ngã nên nói về Như lai tạng, khiến họ lìa cái vọng tưởng
về ngã kiến không thật, nhập vào cảnh giới ba môn giải thoát, hi vọng họ mau
chóng được a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Vì vậy Như lai Ứng cúng Chánh đẳng
giác nói về cái tạng của Như lai như thế. … Nhằm lìa các kiến chấp của ngoại đạo
thì phải dựa vào cái tạng vô ngã của Như lai.”
Kinh Như lai tạng,
v.v., đã nói rằng: Như lai tạng ở trong thân tâm của chúng sanh, là tự tánh
thanh tịnh (prakṛti-viśuddha), thường trụ (dhruva), điều này có gì khác với cái
ngã (ātman) mà ngoại đạo đã nói? Cái ngã mà ngoại đạo nói ấy, chẳng phải cũng
thường trụ, có mặt khắp nơi, bất diệt, lìa cầu-na (guṇa) ư? ‘Lìa cầu-na,’ bản dịch
đời Ngụy nói là “không nhờ vào các duyên, tự nhiên mà có,”1
cho nên ngã là tác giả, không phải là cái nhờ duyên mới có. Cái ngã như vậy,
không phải tương đồng với Như lai tạng ư? Kinh trên cần gì phải nói về Như lai
tạng vậy! Kinh Lăng-già giải thích rằng: Như lai tạng có các tên gọi
khác nhau - như (tathatā), thật tế (bhūtakoṭi), pháp tánh (dharma-dhātu), v.v.,
là ‘cảnh giới lìa vọng tưởng, vô sở hữu.’ Chân như, pháp giới, v.v., mà thường
thấy trong kinh, vì sao lại phải gọi là Như lai tạng vậy? Đây là phương tiện nhằm
‘trừ bỏ nỗi sợ của kẻ phàm phu ngu si về cú [từ] vô ngã,’ ‘khai mở và dẫn dắt
các ngoại đạo chấp về ngã.’ Trong dòng trôi lăn của sanh tử và giải thoát, ngoại
đạo đều chủ trương có ‘ngã’. Đối với sanh tử mà nói, thì ngã là tác giả; giải
thoát, ngã sẽ lìa sanh tử nên luôn luôn an lạc. Phật nói vô ngã (nirātman), là
điều mà ngoại đạo, cũng như những người thông thường không dễ gì tin và chấp nhận
được. Không có ngã, thì ai là kẻ tạo nghiệp, ai chịu quả báo? Không có ngã, thì
sự giải thoát không phải là bằng với sự không có gì cả ư? Cái vô ngã và niết-bàn
(nirvāṇa) mà Phật nói ấy, là chỗ sợ hãi của ngoại đạo và những kẻ phàm phu ngu
si thông thường. Bất đắc dĩ, đành phải lấy chân như nói là Như lai tạng, nói gần
với thần ngã của ngoại đạo. Nếu như tin và chấp nhận thuyết Như lai tạng, lại
tiến thêm một bước lý giải nội dung của nó, thì biết rằng nó khác với thần ngã,
thật sự đó là cái chân như ‘lìa vọng tưởng, vô sở hữu.’ Không khởi lên kiến chấp
về ngã, về pháp, từ ba môn giải thoát (trīṇi-vimokṣa-mukhāni) hướng đến Phật đạo.
Như lai tạng là phương tiện để dẫn dụ và giáo hóa ngoại đạo, cho nên là ‘tạng
vô ngã của Như lai.’
Kinh Lăng-già
nói gần với Du-già học, mà nói được càng rõ ràng hơn! ‘Cái tạng vô ngã của Như
lai,’ và ‘ngã ấy tức là nghĩa Như lai tạng’ của kinh Đại niết-bàn,2 phương tiện là chẳng tương đồng. Bài tụng
chánh văn của luận Bảo tánh nói: nhằm khiến chúng sanh xa rời 5 lỗi lầm,
cái lỗi lầm thứ 5 là ‘chấp thân này có thần ngã,’ cho nên nói chúng sanh có Phật
tánh (buddha-garbha),3 cũng có ý
nghĩa nhằm dẫn dụ và giáo hóa ngoại đạo chấp ngã kiến nên nói có Phật tánh (tên
riêng của Như lai tạng). Nhưng phần giải thích của luận thí nói: “Bởi ôm giữ
cái lỗi hư vọng nên không biết được công đức chân thật, vì vậy không sanh được
cái [tâm] từ bi bình đẳng tự-tha.”4 Luận Phật
tánh giải thích rằng: “Do nghe Phật nói về Phật tánh, nên biết cái lỗi lầm
hư vọng, biết cái công đức chân thật, thì ở trong chúng sanh khởi lên tâm đại
bi; không có [sự phân biệt] bỉ - thử, nên trừ được ngã chấp.”5 Đây là dùng cái đại ngã xem tự - tha
bình đẳng để lìa được cái tiểu ngã hư vọng. Luận Hiển dương Thánh giáo nói:
“Phải biết cái tâm tánh bình đẳng này chính là đại ngã a-thế-da và quảng đại
a-thế-da,”6 đồng nhất ý nghĩa với Bảo tánh luận
thích. Điều này cố nhiên là có nguồn gốc từ nghĩa chân như không có sai biệt,
nhưng đối với sự tùy theo căn cơ mà thuyết giáo pháp – ý nghĩa của sự thuyết
giáo pháp nhằm ‘trừ bỏ nỗi sợ của kẻ phàm phu ngu si về cú [từ] vô ngã,’ ‘khai
mở và dẫn dắt các ngoại đạo chấp về ngã,’ kinh Lăng-già rõ ràng lại thắng
hơn một nước!
2. Như lai tạng
và tạng thức: Như lai tạng (tathāgata-garbha) là cái làm nơi nương tựa (āśraya),
thức a-lại-da (ālayāvijñāna) là cái làm nơi nương tựa, vốn là hai hệ tư tưởng
khác nhau. Trong các bộ luận của Vô trước (Asaṅga), Thế thân (Vasubandhu), tuy
dùng chân như (tathatā) để giải thích Như lai tạng, cũng không có cùng phối hợp
với thức a-lại-da. Kinh mà đem hai cái này phối hợp với nhau để trình bày mối
quan hệ của chúng, là kinh Lăng-già, như Lăng-già a-bạt-đa-la bảo
kinh(II) nói:
“Này Đại Huệ! Cái
vừa có tính chất thiện vừa có tính chất bất thiện, đó là 8 thức. Tám thức đó là
gì? Là [1] Như lai tạng mang tên thức tạng tâm, [2] ý, [3] ý thức, và 5 thức
thân.”(b)
Tám thức là thuyết
được sáng tạo bởi các học giả Du-già. Thức tạng chính là tạng thức – thức a-lại-da.
Theo ý nghĩa đặc thù, thức thứ 8 a-lại-da gọi là tâm (citta), thức thứ 7 gọi là
ý (mano), 6 thức trước gọi là thức (vijñāna). Kinh trên nói ‘8 thức’, lại nói ‘Như
lai tạng gọi là thức tạng (tâm),’ đây là đem Như lai tạng và a-lại-da kết hợp
làm thức thứ 8. Bản dịch đời Ngụy tuy chỉ nói ‘thức a-lê-da,’ nhưng văn bên dưới
nói: “thức a-lê-da gọi là Như lai tạng,”7
đã biểu thị ý nghĩa ‘Như lai tạng gọi là thức tạng’. Kinh Lăng-già xem
chân như là Như lai tạng, cùng với hàm nghĩa của a-lại-da, đương nhiên là không
hoàn toàn nhất trí, nhưng rốt cuộc đã kết hợp làm thức thứ 8. Sự kết hợp Như
lai tạng và a-lại-da làm thức thứ 8, hẳn phải là dựa vào tâm tánh bổn tịnh (prakṛti-pariśuddha-citta),
bị khách trần phiền não che lấp (āgantuka-kleśa-āvṛta) mà ra, như Lăng-già
a-bạt-đà-la bảo kinh(III)
nói:
“Như lai tạng thức
tạng này, tâm tưởng của tất cả Thanh văn, Duyên giác thấy được, tuy tự tánh
thanh tịnh nhưng vì bị khách trần che lấp nên vẫn thấy bất tịnh.”(c)
“Ta dùng thần lực
kiến lập nên nghĩa này, khiến phu nhân Thắng man và các Bồ-tát, v.v., có đầy đủ
trí bén nhạy tuyên dương diễn thuyết tên gọi Như lai tạng và thức tạng, và cùng
sanh 7 thức, nhằm (khiến) Thanh văn (không) chấp trước, thấy nhân và pháp đều
vô ngã. Phu nhân Thắng man nương oai thần của Phật để thuyết về cảnh giới Như
lai tạng, chẳng phải là cảnh giới của Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo, Như
lai tạng thức tạng duy chỉ là cảnh giới trí huệ của Phật và các bậc Bồ-tát có
trí bén nhạy nhờ vào nghĩa này [được thông đạt].”(d)
Kinh Lăng-già
là dựa vào kinh Thắng man, nhưng có giải thích thêm một bước. Kinh Thắng
man có hay không có nói đến thức a-lại-da là một vấn đề khác, nhưng “Như
lai tạng có tự tánh thanh tịnh, mà bị khách trần phiền não, phiền não bậc thượng
làm nhiễm ô, (là) cảnh giới không thể suy lường của Như lai,”8 đúng là điều mà kinh Thắng man
đã nói. Theo thuyết Như lai tạng, bị khách trần phiền não che lấp (hoặc bị làm
ô nhiễm); theo thuyết a-lại-da, là được tích tập (hoặc huân tập) bởi chủng tử tạp
nhiễm. Trong kinh Lăng già, hai thuyết này cũng được thống nhất lại. Vốn
là, a-lại-da – tạng, giống như là ‘cái kho’ của cái hang, ngôi nhà. Trong Nhiếp
Đại thừa luận, Huyền trang dịch nghĩa là ‘nhiếp tạng,’ ‘chấp tàng’. Nhiếp tạng,
bản dịch của Phật-đà-phiến-đa (Buddhaśāmti) dịch vào đời Ngụy, gọi là ‘y –
nương tựa’; bản dịch đời Trần gọi là ‘ẩn
tàng’; bản dịch đời Tùy gọi là ‘y trụ - nơi nương tựa.’9 Kinh Giải thâm mật do Huyền
trang dịch, nói: “Cũng gọi là thức a-lại-da, vì sao vậy? Do vì thức này ở trong
thân, nó có ý nghĩa giữ gìn, ẩn tàng, cùng chịu an nguy;” ‘giữ gìn, ẩn tàng,’
kinh Thâm mật giải thoát nói là: “Bởi vì nó trụ ở trong thân.”10 Thức a-lại-da có ý nghĩa ẩn tàng, làm
nơi nương tựa, giống như nương tựa torng cái hang, căn nhà, cũng chính là ẩn
tàng trong cái hang, căn nhà. Cho nên trong kinh Lăng-già, sự hiện rõ ra
cảnh giới, khởi lên 7 thức, v.v., đương nhiên đó là tác dụng của thức a-lại-da,
mà tự tánh thanh tịnh, bị sự huân tập hư ngụy, xấu xa, làm nhiễm ô, sanh ra
(căn bản của tạp nhiểm) vô minh trụ địa (hoặc gọi là ‘tập địa’), là chìa khóa để
Như lai tạng mà đổi tên thành thức là a-lại-da. Lăng-già a-bạt-đa-la bảo
kinh(IV) nói:
“Tạng của Như lai
là cái nhân thiện và bất thiện, có khả năng tạo ra tất cả sanh thú;… ngoại đạo
không biết, cho nó là tác giả. Do từ vô thỉ đã bị tập khí hư ngụy huân tập, nên
gọi là thức tạng, sanh ra vô minh trụ địa, cùng [sinh khởi] với 7 thức. Nó giống
như sóng của biển, luôn luôn sanh ra không ngừng, lìa cái lỗi về vô thường, lìa
cái lý luận chấp ngã, tự tánh không có cáu bẩn, rốt ráo thanh tịnh.”(e)
Văn cú của bản dịch
đời Ngụy có khác chút ít, như nói: (lược đoạn trên) “Vì các ngoại đạo, v.v., nhận
thức sai lầm về ngã, nên không thể thấy đúng như thật về Như lai tạng. Bởi các
ngoại đạo, từ vô thỉ đến nay, huân tập các bằng các chấp trước sai lầm, các loại
hí luận. Này Đại Huệ! Thức a-lê-da ấy được gọi là Như lai tạng, mà nó cùng kết
hợp với vô minh và 7 thức. Vì nó như sóng của đại dương, luôn luôn sinh ra
không dứt, cùng sanh với thân, lìa cái lỗi về vô thường, lìa cái lỗi về ngã, có
tự tánh thanh tịnh.”11 Theo lời
kinh đã nói: gọi là thức a-lại-da là do vì Như lai tạng, từ vô thỉ, đã bị huân
tập bởi thói quen xấu, hư ngụy – chấp trước sai lầm, các loại hí luận. Cái huân
tập mà được chấp nhận ấy, Du-già học gọi là ‘chủng tử thuộc biến kế sở chấp,’
hoặc nói a-lại-da là ‘cái khối lỗi lầm và bệnh hoạn’. Kinh Lăng-già tuy
sử dụng thuyết chủng tử (bīja), huân tập (vāsanā), mà a-lại-da rõ ràng chính
là: tự tánh thanh tịnh nhưng bị phiền não che lấp, làm nhiễm ô. Theo Đại thừa
trang nghiêm kinh luận để giải thích: Như lai tạng và thức a-lại-da có cùng
một nghĩa, đó là tâm chân như (tathatā-citta) là tự tánh thanh tịnh. Chúng cũng
có ý nghĩa sai biệt, thức a-lại-da tuy không rời tự tánh thanh tịnh của chân
như, nhưng là cái chân như bị che lấp, là cái khối tổng hợp bao gồm những tạp
nhiễm, lỗi lầm, tai họa, phiền não huân tập. Bản dịch đời Tống thì dịch thức
a-lại-da là “che lấp cái thức chân thật kia,”12
đã thức sâu sắc được ý kinh của Lăng-già vậy! Cho nên, tên gọi thức a-lại-da
là [chỉ cho cái] không thanh tịnh. Nếu như tu đến chỗ tất cả các thứ chấp sai lầm
không sinh khởi nữa, dứt trừ hết những huân tập hí luận từ vô thỉ đến ngày nay,
thì chuyển đổi và xả bỏ cái tên gọi thức a-lại-da, duy chỉ còn là cái Như lai tạng
thanh tịnh không có cáu bẩn. Sự chuyển đổi và xả bỏ cái tên gọi tạng thức trong
Như lai tạng, như kinh Lăng-già13
ở trên nói:
Bản dịch đời Tống:
“Người tu [sau khi] sinh ra cái tưởng giải thoát, mà không lìa, không chuyển
tên gọi Như lai tạng và thức tạng, 7 thức lưu chuyển không diệt. Vì sao vậy? Vì
người ấy có cái nhân là vin níu vào các thức được sanh ra ấy.”(f)
“Người muốn sự tiến
bộ thù thắng thì phải làm trong sạch tên gọi Như lai tạng và thức tạng. Này Đại
Huệ! Nếu không có cái thức tạng tên là Như lai tạng, thì [cái thức tạng] ấy không
có sanh diệt.”(g)
Bản dịch đời Đường:
“Đắc được cái tưởng giải thoát, nên làm trong sạch các tên Như lai tạng và tạng
thức. Này Đại Huệ! Nếu không có thức tạng, 7 thức liền diệt, vì sao vậy? Nhân
vì nó và sở duyên được sanh.”
“Muốn đắc được
pháp thù thắng thì cần phải làm trong sạch cái tên Như lai tạng và tạng thức.
Này Đại Huệ! Nếu không có cái Như lai tạng được gọi là thức tạng ấy, thì không
có sanh diệt.”
Bản dịch đời Ngụy:
“Sanh ra tướng giải thoát, bởi vì không chuyển và diệt tướng hư vọng. Này Đại
Huệ! Như lai tạng thức không ở trong thức a-lê-da, vì vậy 7 thức có sanh có diệt,
mà Như lai tạng thức thì không sanh không diệt. Vì sao vậy? Vì 7 loại thức ấy dựa
vào quan niệm về cảnh giới nên sanh ra.”
“Vì muốn chứng
pháp thù thắng, thì phải tu hành để khiến cái Như lai tạng a-lê-da thức ấy được
thanh tịnh. Này Đại Huệ! Nếu cái tên Như lai tạng a-lê-da thức không có, thì
lìa được thức a-lê-da, không có sanh, không có diệt.”
Hai bản dịch đời
Tống và Đường có văn nghĩa tương đồng, văn cú của bản dịch đời Ngụy có điểm bất
đồng. Nhưng bản dịch đời Ngụy nói: không có tên gọi thức a-lại-da, Như lai tạng
không sanh không diệt, sự sanh diệt biến chuyển của 7 thức cũng sẽ diệt mà
không khởi, vẫn nhất trí với bản dịch đời Tống, Đường. Kinh Lăng-già nói
8 thức, khởi đầu là lấy tạng thức tâm và chuyển thức – 7 thức để luận với nhau,
như nói: “Ví như sự đổi thay của nước biển, có nhiều lớp sóng di chuyển, 7 thức
cũng như vậy, cùng tâm hòa hợp sanh ra, nghĩa là nơi tạng thức ấy, các thức
chuyển biến ra nhiều loại.”14(h) Về quan hệ giữa tạng thức và 7 chuyển
thức, kinh nêu ra hòn đất và vi trần làm thí dụ, nhằm giải thích rằng chuyển thức
có thể diệt, mà tạng thức không phải là “cái tướng chân thật của chính thức bị
diệt, nhưng tướng nghiệp thì diệt.”15(i) Điều này rõ ràng xem chân như là cái
tướng chân thật của chính tạng thức, cho nên nói ‘tạng thức không diệt.’ Trong
quyển 4 của bản dịch đời Tống, nói ‘Như lai tạng tên là thức tạng,’ lấy Như lai
tạng (tạng thức) và 7 thức để luận với nhau, như nói: “Như lai tạng sâu xa, mà kết
hợp với 7 thức.”16 Sở dĩ chuyển đổi và xả
bỏ thức a-lại-da chỉ là trừ bỏ sự huân tập bởi những tập khí xấu, hư ngụy làm
che lấp và chướng ngại tướng chân thật, trừ sạch cái tên gọi thức a-lại-da mà
thôi. Sự thống nhất của Như lai tạng và thức a-lại-da, có thể nói là đặc sắc của
kinh Lăng-già vậy! Thức a-lại-da được kinh Lăng-già nói ấy, đặc
trọng tâm vào chân như, nên có khả năng được giải thích là ‘chân tâm!’
Như lai tạng là
chỗ nương tựa của sanh tử và niết-bàn: kinh Thắng-man rõ ràng đã đề cập
đến rằng Như lai tạng là chỗ nương tựa của tất cả pháp, như kinh Thắng man
sư tử hống Nhất thừa đại phương tiện phương quảng(V) nói:
“Bạch Thế tôn! Vì
có Như lai tạng nên nói có sanh tử, đó gọi là thiện thuyết.”(j)
“Như lai tạng lìa
tướng hữu vi, Như lai tạng thường trụ bất biến, vì vậy Như lai tạng là chỗ
nương tựa, là cái duy trì, là cái tạo dựng. Bạch Thế tôn! [Như lai tạng] là [Phật]
pháp không lìa, không đoạn, không thoát ra, không đổi khác, là không thể suy lường.
Bạch Thế tôn! Cái mà làm chỗ nương tựa, duy trì, tạo dựng nên pháp hữu vi thuộc
đoạn, thoát ra, đổi khác, bên ngoài ấy, là Như lai tạng.”(k)
“Bạch Thế tôn! Nếu
không có Như lai tạng ấy thì không thể nhàm chán sự khổ, mong cầu niết-bàn. Vì
sao vậy? Vì 6 thức này và tâm pháp trí, 7 pháp này không dừng trụ trong khoảng
sát-na, không gieo trồng các thứ khổ [thì] không nhàm chán khổ, [nên] không
mong cầu niết-bàn được.(l)”17
Trong những đoạn
kinh văn được dẫn ở trên, đoạn đầu tiên nói, có Như lai tạng cho nên có thể có
dòng biến chuyển của sanh tử, đây là sự thuyết pháp khéo léo. Thứ đến, thành lập
hai loại căn cứ: Như lai tạng là pháp vô vi thường trụ không thay đổi, cho nên
là chỗ nương tựa và duy trì của Phật pháp không thể suy lường thuộc không lìa,
không đoạn, không thoát ra, không đổi khác, cũng sẽ nhờ vào nó mà có niết-bàn của
Phật. Đồng thời, nó là chỗ nương tựa và duy trì pháp hữu vi thuộc đoạn, thoát
ra, đổi khác, bên ngoài, cũng sẽ nhờ đây mà có sanh tử. Kết luận nói: nếu như
không có Như lai tạng, thì dòng biến chuyển của sanh tử không thể được thành lập,
bởi vì 7 pháp gồm 6 thức, v.v., là pháp sanh diệt không ngừng trong từng
sát-na, là không gieo trồng (thọ) các thứ khổ. Không có Như lai tạng cũng không
thể nhàm chán cái khổ của sanh tử, phát sanh mong cầu đối với niết-bàn giải
thoát. Như lai tạng là nơi nương tựa của sanh tử, niết-bàn, cho thấy được cái đặc
sắc của Như lai tạng học vậy!
Kế thừa kinh Thắng
man, dung hòa và thâu nhận Du-già học, kinh Lăng-già đã giải thích
thêm một bước. Kinh Thắng man không có nói đến thức a-lại-da, kinh Lăng-già
lại kết hợp Như lai tạng và thức a-lại-da (tạng) làm thức thứ 8. Kinh Thắng
man nói: “6 thức và tâm pháp trí,” bản dịch đời Đường nói “6 thức và dùng
cái được biết.”18 Cái được biết (jñeya),
người xưa chỉ dịch là ‘trí’ và ‘ưng trí’. ‘Sáu thức và tâm pháp trí,’ kinh Lăng-già
gọi là 7 thức bao gồm ý, ý thức, v.v. Trong 8 thức, vì sao ‘Như lai tạng tên là
tạng thức’ có thể làm nơi nương tựa cho tất cả pháp, mà không phải là 7 thức
trước vậy? Lăng-già a-bạt-đa-la bảo kinh(VI)
nói:
“Đại Huệ lại bạch
Phật rằng: Bạch Thế tôn! Xin Thế
tôn giải thích thêm cho con! Ấm – giới – nhập thuộc về sanh diệt, chúng không
có ngã, thì ai sanh ai diệt? Những kẻ phàm phu ngu muội dựa vào sanh diệt, nên không
biết được sự chấm dứt khổ, không nhận thức niết-bàn.”(m)
“Phật bảo Đại Huệ: Tạng
của Như lai là nhân của thiện và bất thiện, có khả năng tạo ra tất cả sanh thú;
ví như người diễn viên thay đổi thành các hình dáng khác nhau, nên [các hình
dáng được tạo ra bởi người diễn viên là] lìa ngã và ngã sở. … Do từ vô thỉ đã bị
tập khí hư ngụy huân tập, nên gọi là thức tạng, sanh ra vô minh trụ địa, cùng
[sinh khởi] với 7 thức. Nó giống như sóng của biển, luôn luôn sanh ra không ngừng,
lìa cái lỗi về vô thường, lìa cái lý luận chấp ngã, tự tánh không có cáu bẩn, rốt
ráo thanh tịnh.”(n)
Ở trên đã nói qua, vì
ngoại đạo sợ hãi vô ngã (nirātman), chấp sai lầm là có ngã (ātman), cho nên nói
Như lai tạng; Như lai tạng không phải là thần ngã, nhưng lại có sắc thái của thần
ngã. Phật nói ‘các pháp đều vô ngã’, là điều mà người thông thường không dễ gì
tin tưởng và chấp nhận, cho nên trong các bộ phái Phật giáo cũng có học phái
thành lập ‘ngã’. Trong kinh Lăng-già, Bồ-tát Đại Huệ (Mahāmati) đã đại
biểu cho tâm lý thông thường, thỉnh Phật giải thích. Phật nói sanh tử chuyển biến,
cái ở trong dòng sanh tử chuyển biến ấy chỉ là 5 ấm, 6 giới, 6 nhập (xứ), đều
không có ngã. Theo cách nhìn của người thông thường, nếu như không có ngã, thì
ai ở trong sanh, ai ở trong diệt? Cũng chính là ai ở trong sanh tử? Đây là cho
rằng ‘vô ngã’ không thể thành lập nên sanh tử. Còn nữa, như kinh Lăng-già
nói: “Ví như cái bình đã bị đập bể thì không còn tác dụng của cái bình, cũng
như đốt cháy cái hạt rồi thì nó không còn tác dụng nảy mầm nữa. Như vậy, này Đại
Huệ! Nếu tánh của ấm - giới - nhập đã diệt, đang diệt, sẽ diệt, do vọng tưởng của
tự tâm thấy, vì không có nhân, nên nó không có lần lượt sanh ra.”19(o)
Diệt (nirodha) được giải thích là vì sao đều không có gì hết, trong một sát-na
trước diệt, sát-na thứ hai sẽ ‘không có nhân’ nên không thể sanh khởi được. Đây
là nói: sanh diệt vô thường là cái không thể thành lập nên dòng chuyển biến của
sanh tử, như kinh Lăng-già nói: “Các thức còn lại, có 7 thức gồm ý, ý thức,
v.v., có sanh có diệt trong mỗi mỗi niệm [sát-na, kṣaṇa];”(p) “7 thức không bị trôi chảy chuyển biến,
không thọ khổ vui,”20(q) cùng với “7 pháp này không dừng trong
từng sát-na, không gieo trồng các thứ khổ” của kinh Thắng man đã nói là
phù hợp với nhau.21 Học
phái Du-già nói: sự sanh diệt của pháp hữu vi là không dừng trong từng sát-na,
có thể thành lập nên dòng chuyển biến của sanh tử, có dị thục (vipāka) chịu khổ
vui, cho nên lấy tự tánh y tha khởi (para-tantra-svabhāva), thức a-lại-da
(ālaya) làm chỗ nương tựa. Nhưng kinh Lăng-già tuy chấp nhận ‘vô ngã’,
nhưng lại đồng ý với quan điểm phổ biến, cho nên ngoài pháp là các hành sanh diệt,
phải lập nên cái Như lai tạng (tạng thức) thường trụ bất biến, không sanh không
diệt làm căn cứ. Như vậy, Như lai tạng ‘lìa cái lỗi về vô thường, lìa ngã luận’,
làm chỗ nương tựa của tất cả pháp, là sự thuyết pháp khéo léo nhất.
Như lai tạng là chỗ
nương tựa của sanh tử, luận Bảo tánh căn cứ vào kinh Đà-la-ni tự tại
vương, nói như thế này: “Đất nương nơi nước để trụ, nước lại nương nơi gió,
gió dựa vào hư không, hư không thì không dựa vào đất, v.v. Như vậy ấm – giới –
(6) căn trụ trong nghiệp, phiền não; các phiền não, nghiệp, v.v., dựa vào sự tư
duy bất thiện; cái thực hành từ tư duy bất thiện ấy trụ trong tâm thanh tịnh; tự
tánh thanh tịnh tâm thì không trụ trong các pháp kia. … Như cái tâm thanh tịnh
như hư không, luôn luôn torng sáng, không có chuyển biến, vì có sự phân biệt
sai lầm nên bị khách trần phiền não làm ô nhiễm.”22 Theo Như lai tạng – tự tánh thanh tịnh
tâm mà có sanh tử, giống như chính nhờ hư không nên có gió, nước, đất, tuy là
chỗ nương tựa của gió, nước, đất nhưng hư không vẫn trong sáng, thường trụ bất
biến. Như lai tạng làm chỗ nương tựa mà kinh Lăng-già đã nói, cũng là
như vậy, nhưng đã kết hợp với thuyết Duy thức của Du-già, cho nên Như lai tạng
là cái bị những tập khí xấu được xông ướp từ vô thỉ đến nay, cùng sanh với 7 thức,
sanh tử nối tiếp, trôi lăn trong 5 thú, 4 sanh, dựa vào tên gọi là thức a-lại-da
(tạng), giống như mọi thứ đều dựa vào hư không vậy. Kinh Lăng-già nói: “Tạng
của Như lai là cái nhân của thiện và bất thiện, có khả năng tạo ra tất cả (5)
thú, (4) sanh;” cái nhân (hetu) được nói đó, có ý nghĩa là ‘làm chỗ y cứ, làm
chỗ trụ, làm cái tạo dựng.’ Y cứ (niśraya), duy trì (ādhāra), tạo dựng (pratiṣṭhā),
không phải giống như chủng tử sanh ra hiện hành, là ‘cái nhân làm chỗ nương tựa’.
Như đại chủng tạo ra sắc, căn cứ theo thuyết “sanh, nương tựa, trụ, duy trì,
nuôi dưỡng,”23(r) nương tựa, duy trì, tạo dựng, chính
là nhân – năng tác nhân (kāraṇa-hetu) thuộc loại này. “Tạng của Như lai là nhân
của thiện và bất thiện, có khả năng tạo ra tất cả sanh thú; ví như người diễn
viên thay đổi thành các hình dáng khác nhau” là gần với thuyết thần ngã của ngoại
đạo. Đây là phương tiện để “khai mở và dẫn dắt kẻ ngoại đạo chấp ngã,” Như lai
tạng chỉ là tên gọi khác của chân như. Như lai tạng là cái nhân của thiện và bất
thiện, là chỗ nương tựa của sanh tử, quyết chẳng phải rằng Như lai tạng – chân
như có khả năng sanh khởi ra thiện ác, trôi lăn trong sanh tử, chỉ là thiện ác,
sanh tử dựa vào như lại tạng để thành lập, giống như mây và sương mù nương tựa
vào hư không vậy. Mây và sương mùa dựa vào hư không, tự tánh của hư không vẫn
là trong sáng như vậy, tuy nhiên, dường như hương không bị mờ ám nên mất đi sự
trong sáng, kỳ thật là không thấy nhưng không phải là hư không có sự thay đổi
nào đó. Cho nên kinh Lăng-già, tiếp theo, nói: “lìa cái lỗi về vô thường,
lìa cái lý luận chấp ngã, tự tánh không có cáu bẩn, rốt ráo thanh tịnh.” Nhằm
giáo hóa và dẫn dắt những kẻ phàm phu có quan điểm không có pháp thường trụ bất
biến thì sẽ không thể thành lập nên dòng chuyển biến của sanh tử, cho nên nói
Như lai tạng là nhân, là chỗ nương tựa. Như kinh Lăng nghiêm và luận Khởi
tín được truyền trong Phật giáo Trung quốc đã nói rằng ‘chân như bị vô minh
huân tập,’ ‘vô minh huân tập chân như,’ v.v., trong Phật giáo Đại thừa hậu kỳ ở
Ấn độ, dường như không có quan điểm như thế.
Nhờ Như lai nên có niết-bàn,
cũng là ‘làm chỗ nương tựa, làm cái duy trì, làm cái tạo dựng.’ Kinh Lăng-già
đã dung hợp Du-già học, cho nên lập nên tập khí, như Lăng-già a-bạt-đà-la bảo
kinh(VII) nói:
“Này Đại Huệ! [Pháp mà
thuộc] sát-na là cái thức tạng được gọi là Như lai tạng, kết hợp với ý, bằng tập
khí của chuyển thức, đó là [pháp thuộc] sát-na. Khi nó kết hợp bằng tập khí vô
lậu thì không phải là [pháp thuộc] sát-na. Những kẻ phàm phu ngu muội chấp trước
vào sát-na luận nên không biết được tất cả pháp thuộc sát-na (hay) chẳng phải
thuộc sát-na, chúng dùng cái đoạn kiến để phá hoại pháp vô vi.”(t)
Trong cái thức tạng được
gọi là Như lai tạng ấy sanh ra tập khí của 7 thức, là sát-na (kṣaṇa), là pháp hữu
vi sanh diệt; có riêng tập khí vô lậu khác, là chẳng phải sát-na, cũng chính là
pháp vô vi không sanh diệt. Ở đây, rõ ràng bất đồng với Du-già học. Du-già học
cho rằng: tập khí vô lậu cũng là cái sanh diệt trong từng sát-na, cho nên bốn
trí bồ-đề của quả vị Phật cũng vẫn là cái thuộc hữu vi sanh diệt. Kinh Lăng-già
phê bình rằng: “Nếu bậc đắc vô gián có tính sát-na, thì vị Thánh ấy chẳng phải
là Thánh!”24(u) Từ ‘vô gián’ của bản dịch đời Tống
chính là ‘vô gián đẳng’ (abhisamaya), là cách dịch khác của ‘hiện quán’ hoặc
‘hiện chứng’. Đây là sự chứng đắc về Thánh trí, nếu như cái trí do chứng được ấy
mà là sanh diệt trong khoảng sát-na, thì vị Thánh ấy cũng đã không thành Thánh
vậy! Các công đức gồm trí vô lậu, v.v., theo kinh Lăng-già, thì chúng là
thuộc vô vi không sanh diệt. Kinh Nhập Lăng-già,(VIII) là bản dịch đời Ngụy, nói:
“Nói cái có tính chất
sát-na ấy được gọi là không. Thức a-lê-da gọi là Như lai tạng, vì không [sanh]
cùng với ý và huân tập chuyển thức nên gọi nó là không; vì pháp huân tập đầy đủ
vô lậu nên gọi là chẳng phải không.”
Bản dịch đời Ngụy,
nhìn chung là có chút khác biệt. Cái mà thuộc sát-na-ca – sát-na mà kinh Lăng-già
nói đó, là cái tách rời với Như lai tạng, cho nên cái đó là không (śūnyatā); tập
khí vô lậu là (chẳng phải thuộc sát-na) bất không (aśūnya). Không là cái hữu vi
sanh diệt, bất không là cái vô vi chẳng sanh diệt. Không và bất không, rõ ràng
là đã trích dẫn từ lời kinh Thắng man nói: “Không Như lai tạng là sự hoặc
lìa, hoặc thoát khỏi, hoặc khác với tạng của tất cả phiền não. Bạch Thế tôn! Bất
không Như lai tạng là Phật pháp vượt quá số cát sông Hằng, không lìa, không
thoát, không khác, không thể suy lường.”25
Căn cứ vào pháp hữu vi gồm phiền não, v.v., của Như lai tạng, thì thuộc về không;
căn cứ vào Như lai tạng, cái mà không lìa, không khác với Như lai tạng, là Phật
pháp không thể suy lường thuộc vô lượng vô biên, là bất không. Như lai tạng là
tên gọi khác của chân như, là tánh không sai biệt của tất cả pháp, công đức vô
lậu không phải là cái có từ tánh chân như, mà là cái tập khí vô lậu mà không
lìa, không khác với chân như được hiển lộ ra. Nó là cái do trải qua sự tu tập
lìa các thứ che lấp nên hiện ra, tương ưng với chân như nên vĩnh viễn không bị
mất hay hư hoại. Kinh Lăng-già dựa vào thuyết tập khí vô lậu, nên tông
chỉ của nó quy về Như lai tạng học. Cũng nhân đây, kinh Lăng-già và
Du-già học tương đồng, nói có 5 chủng tánh. Chúng đều lập nên loại vô chủng
tánh (agotra), vô chủng tánh là người nhất-xiển-đề (icchantika), nhưng nhất-xiển-đề
là người bỏ hết tất cả thiện căn, ‘do nhờ thần lực của Như lai, nên hoặc có khi
thiện căn được sanh.’(v) Cho
nên “vì những người mới trị địa ấy nên thuyết [lập nên] chủng tánh”(w) khác nhau, kỳ thật chúng đều có thể
thành Phật.26
2.
Thuyết Phật tánh của bộ phận được dịch tiếp nối của kinh
Niết-bàn
Kinh Đại
Bát-niết-bàn do Đàm-mô-sấm (Dharmarakṣa) dịch, lần dịch đầu tiên gồm có 10
quyển, so với kinh Đại Bát-nê-hoàn do Pháp Hiển dịch, là cùng một nguyên
bản nhưng bản dịch khác nhau. Ba mươi quyển còn lại là do Đàm-mô-sấm trở lại
Tây Vực, tìm được rồi dịch tiếp.1 Phần được
dịch tiếp này, tổng cộng có 8 phẩm: phẩm Hiện bệnh, phẩm Thánh hành, phẩm Phạm
hành (ở sau phẩm này phải có phẩm Thiên hành, giống như kinh Tạp hoa đã
nói), phẩm Anh nhi hành, từ phẩm này trở về trước trình bày rõ ‘5 loại hành’; phẩm
Quang minh biến chiếu cao quí đức vương Bồ-tát, trình bày về ‘10 đức’; phẩm Sư
tử hống Bồ-tát; phẩm Ca-diếp Bồ-tát; phẩm Kiều-trần-như. Chủ đề trung tâm của
kinh Đại Bát-niết-bàn là ‘đức Như lai là thường trụ, bất biến’, niết-bàn
có 4 đức ‘thường, lạc, ngã, tịnh’, ‘tất cả chúng sanh thảy đều có Phật tánh’. Đại
bát-niết-bàn (mahāparinirvāṇa) được thành tựu bằng vô lượng công đức, vì thường
trụ bất biến nên làm lợi ích vô tận cho chúng sanh. Như lai (Tathāgata) cũng
không phải sanh ra tại vương cung, nhập diệt tại thành Câu-thi-na (Kuśinagara),
mà đó là do đức Như lai thường trụ trong đại niết-bàn thị hiện ra. Mười quyển
thuộc phần đầu của kinh Niết-bàn đã nêu lên rõ ràng về nghĩa của Như lai
tạng, như kinh Đại Bát-niết-bàn2
nói:
1. “Ngã ấy, tức
là nghĩa của Như lai tạng; tất cả chúng sanh thảy đều có Phật tánh, tức là
nghĩa của ngã.”
2. “Tất cả chúng
sanh thảy đều có Phật tánh, bởi do Phật tánh, nên trong thân của chúng sanh có
ngay liền 10 lực, 32 tướng, 80 tướng tốt.”
3. “Phật tánh là
cái không thể suy lường như thế, (có đủ) 32 tướng, 80 tướng tốt cũng không thể
suy lường được.”
Như lai tạng
chính là ngã (ātman), ngã chính là Phật tánh (buddha-dhātu, buddha-garbha,
tathāgata-dhātu), trong thân của chúng sanh có đủ các công đức gồm 10 lực, 32
tướng, v.v., của Như lai, so với thuyết Như lai tạng của sơ kỳ - kinh Như
lai tạng, kinh Ương-quật-ma-la, kinh Pháp cổ, v.v., về chủ thể
thì hoàn toàn nhất trí với nhau. Như lai tạng có đầy sắc thái thần ngã này –
thuyết Phật tánh, giới Phật giáo Đại thừa đã có khuynh hướng làm cho nó trở nên
thanh tịnh [tịnh hóa]. Như tác giả của luận Bảo tánh, đã dựa vào 3 nghĩa
để giải thích Như lai tạng, học giả Du-già (Yoga) đã dùng ý nghĩa của cái chân
như (tathatā) không có sai biệt để giải thích Như lai tạng; 13 quyển sau cùng của
kinh Niết-bàn cũng có sự giải thích độc đáo. Tịnh hóa Như lai tạng –
khuynh hướng chung mà Phật tánh có được, chính là đã làm nhạt đi sắc thái chúng
sanh có chân ngã. Ba mươi quyển được dịch tiếp của kinh Niết-bàn cũng
không phải là được biên tập hoàn thành cùng một lần. Như 5 phẩm gồm phẩm Bệnh
hành, v.v., và phẩm Sư tử hống Bồ-tát, phẩm Ca-diếp Bồ-tát, khi giải thích về
Phật tánh ở trên, cũng có giải thích thêm ít nhiều bất đồng đối với thuyết ở
trước. Khi bộ phận được dịch tiếp tục ấy được biên tập thành (hoặc được dịch
ra), đối với bộ phận được dịch lần đầu, cũng có thể có ít nhiều tu chỉnh, bổ
sung thêm. Như ‘3 đức bí tạng’, bản dịch của Pháp Hiển không có. Đoạn Bồ-tát
Ca-diếp nêu lên câu hỏi, bản dịch của Pháp Hiển cũng giản lược rất nhiều.3 Bộ phận được dịch tiếp tục của kinh
Đại Bát-niết-bàn, tư tưởng rất là rộng lớn và phức tạp, không thể thảo luận
đầy đủ ở đây được, ở đây chỉ bàn sơ lược về bộ phận được dịch tiếp tục ấy, là
giải thích ‘tất cả chúng sanh thảy đều có Phật tánh’ như thế nào.
Như lai tạng,
ngã, Phật tánh, là những tên gọi khác nhau nhưng đồng một ý nghĩa. Trong 30 quyển
sau ấy, điều mà chúng ta cần phải chú ý, là không một lần đề cập đến từ Như lai
tạng! Phẩm Sư tử hống Bồ-tát, nói: 500 Phạm-chí hỏi Phật về thuyết vô ngã: “Nếu
vô ngã thì ai là người trì giới? Ai là người phá giới?” Phật nói: “Ta thường
tuyên thuyết rằng tất cả chúng sanh thảy đều có Phật tánh, Phật tánh ấy há chẳng
phải ngã ư,” này những người Phạm-chí, “Vì [có người] nghe nói Phật tánh tức là
ngã, nên liền phát tâm a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề.” Sau đó Phật bảo bọn họ
rằng: “Phật tánh ấy thật sự chẳng phải là ngã; vì chúng sanh nên Ta gọi nó là
ngã.”4 Phật tánh (Như lai tạng) không có ngã
mà nói nó là ngã, đó chỉ là nhằm thích ứng với Thần giáo của Ấn độ, là phương
tiện để dụ dẫn kẻ ngoại đạo chấp ngã, là nhất trí với kiến giải của kinh Lăng-già.
Trong phẩm Ca-diếp Bồ-tát, Phật nói 5 ấm là vô thường, vô ngã, tâm của đệ tử ngoại
đạo đều sanh sợ hãi, không tin và không chấp nhận lời dạy của Phật. Nhưng Phật
“vì các đại chúng nên nói có pháp mang tánh thường, lạc, ngã, tịnh,” hàng đệ tử
ngoại đạo liền bỏ ngoại đạo mà tin theo Phật.5
Phật nói đến thường, lạc, ngã, tịnh, chính trong những thứ đó đã có ý nghĩa rằng
niết-bàn của Như lai chẳng phải là không, nhưng nói là thường, lạc, ngã, tịnh,
thì quả thật đã có ý liên quan đến việc thích ứng với Thần giáo của thế tục.
Thuyết Như lai tạng
(Phật tánh), là nói tổng quát ở trong thân (nối tiếp nhau) của chúng sanh, ở
trong uẩn-xứ-giới của chúng sanh có Như lai tạng, có đủ 32 tướng. Bây giờ, tu
chỉnh rồi cho nó sự giải thích mới, như quyển 27 của kinh Đại Bát-niết-bàn
(T. 12, tr. 524b) nói:
“Vì tất cả chúng
sanh nhất định đắc được a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, thế nên Ta nói tất cả
chúng sanh thảy đều có Phật tánh, tất cả chúng sanh thật tế chưa có 32 tướng,
80 vẻ đẹp.”
‘Tất cả chúng
sanh thảy đều có Phật tánh’, không phải nói đang hiện hữu bên trong thân của
chúng sanh có 32 tướng tốt giống như của Như lai. “Nếu trong (thân) của các
chúng sanh có Phật tánh ấy, thì tất cả chúng sanh phải có thân của Phật, giống
như Ta hiện nay vậy.”6 Như vậy,
trong thân chúng sanh có Như lai tạng, có đủ 32 tướng, là dùng phương tiện để
nói mật ý vậy! Cái không có ngã mà nói có ngã, theo bộ phận được dịch tiếp tục
của kinh Niết-bàn, thì không có gì nghi ngờ, nó là phương tiện để thích ứng
với Thần giáo học đương thời. Vậy thì, cái ngã thuộc thường-lạc-ngã-tịnh của Như
lai, ý thật là ở đâu? Như kinh Đại Bát-niết-bàn7 nói:
1. “Vì có cái đại
ngã nên gọi là đại niết-bàn. Vì niết-bàn không có ngã, là đại tự tại nên gọi là
đại ngã. Sao gọi là đại tự tại? Vì có 8 thứ tự tại nên gọi là ngã.”
2. “Pháp thân của
Như lai không có giới hạn, không có chướng ngại, chẳng sanh, chẳng diệt, được 8
thứ tự tại, nên gọi là ngã.”
3. “Chư Phật…
không thọ trở lại trong 25 hữu nên gọi là xuất thế, bởi xuất thế nên gọi là
ngã.”
4. “Vì nó là ‘thường’
nên gọi nó là ngã.”
5. “Trong pháp
không có ngã ấy có cái ngã chân thật.”
Theo 2 đoạn đầu
nói, niết-bàn là cái không có ngã, nhưng Như lai thường trụ trong đại bát-niết-bàn,
được 8 thứ tự tại (như kinh đã nói) cho nên gọi là đại ngã. Ngã là ý nghĩa của
‘tự tại’, cho nên Phật gọi là đại ngã, đã cho thấy sự đại tự tại của Phật. Đại
niết-bàn là sự ra khỏi 25 hữu thuộc sanh tử của thế gian, cho nên đoạn 3. nói: “Bởi
xuất thế nên gọi là ngã.” Đoạn 4. nói “vì nó là ‘thường’ nên gọi nó là ngã”,
cũng là dựa theo sự ra khỏi vô thường, sanh tử để nói. “Trong pháp không có ngã
ấy có cái ngã chân thật” mà đoạn 5. đã nói, là thuộc bài kệ xưng tán của phẩm
Ca-diếp Bồ-tát. Bài kệ để tán thán ấy có ý vị văn học, trên mặt pháp nghĩa thì
không thể xem là chuẩn mực được!
Bộ phận được dịch
tiếp tục ấy có thể chia làm 4 phần. Phần thứ nhất: trình bày rõ về ‘5 hành’,
‘10 đức’, là phẩm Bệnh hành…, phẩm Quang minh biến chiếu cao quí đức vương Bồ-tát,
5 phẩm này là lấy nghĩa ‘không’ của Đại thừa để trình bày tất cả. Như phẩm Phạm
hạnh trình bày rõ 11 loại không: nội không (adhyātma-śūnyatā), ngoại không
(bahirdhā-śūnyatā), nội-ngoại không (adhyātma-bahirdhā-śūnyatā), hữu vi không
(saṃskṛta-śūnyatā), vô vi không (asaṃskṛta-śūnyatā), vô thỉ (chung) không
(anavarāgra-śūnyatā), tánh không (prakṛti-śūnyatā), vô sở hữu không (abhāva
-śūnyatā), đệ nhất nghĩa không (paramārtha-śūnyatā), không không
(śūnyatāśūnyatā), đại không (mahā-śūnyatā).8
“Chư Phật Thế tôn từ 6 ba-la-mật, 37 phẩm trợ đạo, 11 loại không để đi đến đại
niết-bàn.”9 Trong kinh này cũng đã
nói đến: “Như lai thường tu 18 nghĩa của ‘không’.”10 Như kinh trên11 nói:
1. “Tánh của niết-bàn
thật tế chẳng có, chư Phật Thế tôn vì thế gian nên nói là có.”
2. “Niết-bàn như
vậy cũng được gọi là có, nhưng niết-bàn thật tế chẳng phải là có, vì chư Phật
Như lai tùy theo thế tục nên nói niết-bàn là có. … Vì tùy theo thế tục nên nói
rằng chư Phật có đại niết-bàn.”
3. “Nếu thấy được
Phật tánh thì sẽ không thấy trở lại rằng tất cả pháp (có) tánh. Bởi do tu loại
không tam-muội như vậy nên không thấy pháp (có) tánh, bởi không thấy nên thấy
được Phật tánh. … Bồ-tát ma-ha-tát tu đại niết-bàn, thì thảy đều không thấy tất
cả pháp, nếu vị nào có thấy thì không thấy được Phật tánh. … Bồ-tát không chỉ
nhân vì thấy (‘không’?) tam-muội nên thấy được ‘không’, bát-nhã ba-la-mật cũng
không,… Như lai cũng không, đại bát-niết-bàn cũng không: vì vậy Bồ-tát thấy tất
cả pháp thảy đều là không.”
4. “Phật tánh của
chúng sanh cũng như vậy, do nhiều duyên giả hợp thời liền có thể thấy. Do nhiều
duyên giả hợp nên thành được a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Nếu cái mà đợi nhiều
chuyên hòa hợp rồi sau mới thành thì tức là cái không có tánh; bởi không có
tánh nên có thể đắc a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề.”
‘Bổn tánh của tất
cả các pháp tự nó là không’, nhờ duyên nên mới có, là cái ‘không’ không có tự
tánh (asvabhāva). Không riêng pháp sanh tử mang tánh tạp nhiễm, mà bát-nhã
(prajñā), Như lai, đại bát-niết-bàn cũng là ‘không’. Tất cả đều là ‘không’, cho
nên bồ-đề vô thượng và đại bát-niết-bàn đều là những cái tên giả được đặt nên
theo thế tục. Bổn tánh của tất cả đều là ‘không’, không phải cái gì cũng đều
không có, đây là cái tướng đúng như thật của tất cả, cho nên cũng có thể nói đại
bát-niết-bàn có thường-lạc-ngã-tịnh. Dựa vào đây để nói, thì Phật tánh là cái
chẳng ngoài sự dựa vào không (tánh), như (tathatā) để nói, như quyển 14 của
kinh Đại Bát-niết-bàn (T. 12, tr. 445b-c, 447c) nói:
“Phật tánh không
có sanh, không có diệt, không có đi, không có đến, chẳng phải thuộc quá khứ, chẳng
phải thuộc vị lai, chẳng phải thuộc hiện tại, chẳng phải do ‘nhân’ làm ra, chẳng
phải không có nhân làm ra, chẳng phải hành động làm, chẳng phải kẻ thực hiện
hành động, chẳng phải tướng, chẳng phải không có tướng, chẳng phải có tên, chẳng
phải không có tên, chẳng phải danh, chẳng phải sắc, chẳng phải dài, chẳng phải
ngắn, chẳng phải cái được thâu tóm và duy trì bởi ấm-giới-nhập, vì vậy gọi là
‘thường’. … Phật tánh là vô vi nên là ‘thường’. Hư không ấy là Phật tánh.”
“Hư không chẳng
phải cái sanh ra, chẳng phải là cái được sanh ra, chẳng phải kẻ làm, chẳng phải
kẻ tạo ra, chẳng phải là pháp hữu vi. Như lai cũng vậy. … giống như tánh của
Như lai, Phật tánh cũng vậy.”
Phật tánh là cái
giống như hư không, là vô vi – chẳng phải là pháp hữu vi, thường trụ - chẳng phải
là pháp bị biến đổi. Kinh trên nói: Bồ-tát biết được 6 nghĩa của Phật tánh: thường,
tịnh, thật, thiện, thấy thật trong hiện tại, chân;12 định nghĩa của Phật tánh tương đồng với
định nghĩa của ‘không tánh’. “Nếu thấy được Phật tánh thì không thấy trở lại
tánh của tất cả pháp,”13 chính
là cái ‘không tánh’ dứt tuyệt mọi hí luận do bát-nhã mà thể nhập và chứng được.
Kinh trên nói: “Phật tánh ấy tức là Như lai;”14
“nghĩa của Phật tánh ấy gọi là a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề.”15 Kỳ thật, “Phật cũng không nói Phật (Như
lai) và Phật tánh, niết-bàn không có tướng sai biệt, duy chỉ nói là thường hằng,
bất biến, không có sai biệt mà thôi.”16
Dựa theo cái nghĩa thường trụ, không có sai biệt của tánh không chân như cho
nên nói Phật tánh tức là Như lai, Phật tánh tức là bồ-đề vô thượng. Nói tánh
không là Phật tánh, đương nhiên là ‘tất cả chúng sanh thảy đều có Phật tánh’.
Nhưng nói chúng sanh có Phật tánh, nhất định không phải giống như trong cái
bình có chứa đồ vật, không phải giống như trong cái mầm có cái cây, mà là “Phật
tánh cũng như vậy, không có trú xứ, bởi dùng phương tiện khéo léo nên có thể nhận
thấy được.” Cho nên người nhất-xiển-đề (icchantika) không bị dứt mất Phật tánh,
cũng có thể nói “trong nhất-xiển-đề không có Phật tánh.”17
Phần thứ 2 là phẩm
Sư tử hống Bồ-tát, tổng cộng có 6 quyển, lấy Phật tánh (và niết-bàn) làm chủ đề,
còn cho nó sự nghiên cứu đầy đủ. Điều mà 5 phẩm ở trên nói: “Nếu thấy được Phật
tánh thì không thấy tánh của tất cả pháp;” nói thường-lạc-ngã-tịnh mà không nói
‘chẳng phải không’; bàn rộng về tánh không của tất cả pháp thuộc sanh tử, niết-bàn,
là chịu ảnh hưởng sâu sắc của kinh Bát-nhã. Phẩm Sư tử hống Bồ-tát lại
quay trở về lập trường ‘không’ và ‘bất không’ của phần đầu,(a) nhưng là căn cứ vào 12 nhân duyên –
12 (chi) duyên khởi (dvādaśāṅga-pratītya-samutpāda), trung đạo (madhyamārga), đệ
nhất nghĩa không – thắng nghĩa không (paramārtha-śūnyatā) để triển khai sự
nghiên cứu về Phật tánh, không có gì nghi ngờ rằng nó đã chịu ảnh hưởng Trung
luận của Long thọ (Nāgārjuna). Đương nhiên, đây là trích dẫn cái thuyết của
Luận sư để trang bị cho chính mình, nên tư tưởng không cần phải nhất trí với Trung
luận. Trước hết, phẩm Sư tử hống Bồ-tát đã nêu ra: Cái gì là Phật tánh? Vì
sao gọi là Phật tánh, vì sao lại gọi là thường-lạc-ngã-tịnh? Vì sao có khi không
thấy, có khi không thấy rõ ràng, có khi thấy rõ ràng Phật tánh? Giải đáp chủ yếu
đối với 2 câu hỏi đầu tiên, như quyển 27 của kinh Đại Bát-niết-bàn (T.
12, tr. 523b-524b) nói:
“Này Thiện nam tử!
Phật tánh ấy được gọi là đệ nhất nghĩa không, đệ nhất nghĩa không được gọi là
trí huệ. Cái được gọi là không ấy, chẳng thấy không và bất không. Người trí thấy
được không và bất không, thường và vô thường, khổ và lạc, ngã và vô ngã. Không,
ấy là tất cả sanh tử; bất không, ấy là đại niết-bàn; cho đến, vô ngã ấy tức là
sanh tử, ngã ấy là đại niết-bàn. Nếu thấy tất cả là không mà không thấy bất
không thì không gọi là trung đạo; cho đến người nào thấy tất cả đều là vô ngã
mà không thấy ngã thì không gọi là trung đạo. Trung đạo ấy được gọi là Phật
tánh, bởi do nghĩa này, nên Phật tánh thường hằng, không có biến đổi, vì vô
minh cho lấp nên khiến cho chúng sanh không thể thấy được. Hàng Thanh văn và
Duyên giác thấy tất cả là không mà không thấy bất không, cho đến thấy tất cả đều
vô ngã mà không thấy được ngã, bởi do nghĩa này, nên không đắc được đệ nhất
nghĩa không; vì không đắc được đệ nhất nghĩa không, nên không thực hành được
trung đạo; vì không có được trung đạo nên không thấy được Phật tánh.” – đoạn
này trả lời cho câu hỏi thứ nhất.
“Này Thiện nam tử!
Phật tánh ấy tức là chủng tử trung đạo thuộc a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề của
tất cả chư Phật.”
“Không có thường
hằng, không có đoạn diệt nên mới gọi là trung đạo. Không có thường hằng, không
có đoạn diệt tức là cái trí có được do quán chiếu 12 nhân duyên, cái trí đắc được
do quán như vậy được gọi là Phật tánh.”
“Này Thiện nam tử!
Thứ trí huệ có được do quán 12 nhân duyên này tức là chủng tử của a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề,
bởi do nghĩa này, nên12 nhân duyên được gọi là Phật tánh. Này Thiện nam tử! Ví
như trái dưa Hồ [dưa vàng] được gọi là trái bệnh nhiệt, vì sao vậy? Vì nó thường
làm nguyên nhân gây là bệnh nhiệt; 12 nhân duyên cũng như vậy.”
“Này Thiện nam tử!
Phật tánh ấy có nhân, có nhân của nhân, có quả, có quả của quả. Có nhân, ấy tức
là 12 nhân duyên; nhân của nhân, ấy tức là trí huệ; có quả, ấy tức là a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề;
quả của quả, ấy tức là đại bát-niết-bàn vô thượng.”
“Mười hai nhân
duyên là bất xuất (sanh?) bất diệt, bất thường, bất đoạn, chẳng phải một, chẳng
phải hai, chẳng đến, chẳng đi, chẳng phải nhân, chẳng phải quả. Này Thiện nam tử!
Cái là nhân thì chẳng phải là quả, giống như Phật tánh; cái là quả thì chẳng phải
là nhân, giống như đại niết-bàn; cái vừa là nhân vừa là quả, giống như pháp do
12 nhân duyên sanh ra; cái chẳng phải nhân chẳng phải quả thì gọi là Phật tánh.
Vì (Phật tánh) chẳng phải nhân chẳng phải quả, nên thường hằng, không có biến đổi.
Bởi do nghĩa này nên trong kinh, Ta nói: 12 nhân duyên ấy, ý nghĩa của nó rất
sâu xa! … Vì vậy ở trong các kinh, Ta nói: Nếu có người nào thấy được 12 nhân
duyên thì tức là thấy pháp; người mà thấy được pháp thì tức là thấy Phật. Phật ấy
chính là Phật tánh, vì sao vậy? Vì tất cả chư Phật đều lấy cái này làm tánh.”
“Này Thiện nam tử!
Cái trí có được do quán 12 nhân duyên ấy, có 4 loại… Vì người quán được trí thượng
thượng thì thấy được rõ ràng [liễu liễu], nên đắc được đạo a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề.
Bởi do nghĩa này, nên 12 nhân duyên được gọi là Phật tánh, Phật tánh ấy tức là
đệ nhất nghĩa không, đệ nhất nghĩa không được gọi là trung đạo, trung đạo ấy tức
được gọi là Phật, Phật ấy được gọi là niết-bàn.” – những đoạn này trả lời cho
câu hỏi thứ 2.
Phật tánh là gì?
“Phật tánh ấy được gọi là đệ nhất nghĩa không, đệ nhất nghĩa không được gọi là
trí huệ.” Đệ nhất nghĩa không, rút ra từ kinh Tạp A-hàm, cũng thấy trong
phẩm Phạm hạnh của kinh Niết-bàn này.18
Kinh trên nói: 6 xứ gồm con mắt, v.v., khi sanh ra, nó không từ đâu đến, khi diệt
đi, nó cũng không đi về đâu; có nghiệp báo mà không có kẻ tạo nghiệp. Căn cứ
vào sự đặt bày theo thế tục, thì 12 nhân duyên là: “Cái này có nên cái kia có,
cái này sanh nên cái kia sanh; cái này không có nên cái kia không có, cái này
diệt nên cái này diệt,” cũng chính là sự hình thành và diệt đi, sanh tử và niết-bàn
của nhân duyên: đây chính là duyên khởi trung đạo mà kinh A-hàm đã nói.
Cho nên, đệ nhất nghĩa không mà kinh Niết-bàn này nói, là thắng nghĩa
không về 12 nhân duyên. Luận Đại trí độ nói: “Bát-nhã ba-la-mật được
chia làm 2 phần, người thành tựu được nó thì nó được gọi là bồ-đề, khi chưa
thành tựu được nó thì nó được gọi là không.” “Mười tám loại không ấy tức là trí
tuệ.”19 Phải biết rằng, 11 loại không hoặc 18
loại không, là do quán bổn tánh của pháp là không – không quán (hoặc ‘không’
tam-muội); trong sự thực hành sự quán này, quán bổn tánh của nhân duyên, v.v.,
đều là không, đến khi thấy (chứng) được ngay hiện tại về tánh không; pháp quán
về không này trở thành bát-nhã – trí huệ, cho nên nói: “Đệ nhất nghĩa không được
gọi là trí huệ” (thật tướng bát-nhã). Kinh trên tiếp theo nói: “Cái được gọi là
không ấy, chẳng thấy không và bất không; người trí thấy được không và bất
không…:” đây là đệ nhất nghĩa không và trí (huệ) mà đoạn kinh trên đã nói. Hai
câu này dường như là rất khó hiểu! Căn cứ vào đoạn kinh ở trên để nói, thì cái
‘không’ của đệ nhất nghĩa không, tiếng Phạn là tánh không (śūnyatā), tánh không
là chỗ không có tranh luận nên dứt tuyệt không còn hí luận, không chỉ cái chẳng
phải không không thể nắm bắt được, mà cái không (śūnyatā) cũng không thể nắm bắt
được, cho nên nói: Bồ-tát “thực hành cái ‘không’ không thể nắm bắt ấy, thì
‘không’ cũng không thể nắm bắt.”20 Nói đến
trí (huệ) để thể nhập và thấy được tánh không, kinh Bát-nhã có truyền lại
2 thuyết: 1) không thấy gì về tất cả pháp; 2) không thấy gì nhưng không có gì
không thấy.21 Kinh Niết-bàn
phù hợp với thuyết thứ 2. Đệ nhất nghĩa không của 12 nhân duyên, ở trong sự thể
nhập và nhận thức lìa tất cả hí luận chấp trước, thấy cái không, vô thường, khổ,
vô ngã thuộc giới hạn sanh tử của duyên khởi, cũng thấy cái chẳng phải không,
thường, lạc, ngã thuộc giới hạn niết-bàn của duyên diệt, cho nên nói: “người
trí thấy được không và bất không;” “cái không, ấy là tất cả sanh tử; cái bất
không, ấy là đại bát-niết-bàn.” Đây là duyên khởi trung đạo do trí huệ thấy được,
“trung đạo được gọi là Phật tánh;” Nhị thừa thấy không, vô thường, khổ, vô ngã,
mà không thấy được cái chẳng phải không, thường, lạc, ngã, vì thấy một bên nên
không thực hành được trung đạo, cũng sẽ không thể thấy được Phật tánh.
Vì sao gọi là Phật
tánh? Phật tánh là chủng tử của a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề
(anuttara-samyak-saṃbodhi). Chủng tử là tỉ dụ cho nhân duyên, khác với thuyết
chủng tử của học giả Du-già. Nhờ nhân duyên này mà có thể thành Phật, cho nên gọi
là Phật tánh, gần với ý nghĩa của chủng tánh (gotra) Phật. “Trí huệ có được do
quán 12 nhân duyên ấy tức là chủng tử của a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề,” có
thể thấy đây là lấy cái trí đệ nhất nghĩa không làm Phật tánh. Trí đệ nhất
nghĩa không là do nhờ quán chiếu về 12 nhân duyên mà có, cho nên lại nói “12
nhân duyên được gọi là Phật tánh.” Đến đây, cái mà có thể được gọi là Phật tánh
thì có 3: 1) 12 nhân duyên; 2) cái ‘không’ của 12 nhân duyên – trung đạo; 3)
trí có được do quán 12 nhân duyên. Mười hai nhân duyên được gọi là Phật tánh,
thì trong nhân mà nói đến quả, nêu ra quả dưa Hồ được gọi là bệnh nhiệt để nói
thí dụ. Mười hai nhân duyên được Phật tánh nương tựa, nên cũng được gọi là Phật
tánh. Đến chỗ này, kinh trên đã nêu ra thuyết nhân quả của Phật tánh, như sau:
Danh từ Phật tánh
này, mặc dù liên hệ đến cả 3 việc, nhưng từ trong sự phân tích và giải thích đã
liệt kê ở trên, thì có thể thấy Phật tánh là ‘12 nhân duyên, chẳng sanh, chẳng
diệt, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng đến chẳng
đi’, chính là duyên khởi gồm 8 phủ định mà Trung luận đã nói, cũng là điều
mà kinh này nói: “Phật tánh ấy tức là đệ nhất nghĩa không, đệ nhất nghĩa không
được gọi là trung đạo” (người xưa gọi nó là chánh nhân Phật tánh). Theo liệt kê
ở sơ đồ trên, 12 duyên khởi là cái nhân để Phật tánh nương tựa, ở trong nhân mà
nói đến quả, cho nên gọi là Phật tánh. Trí huệ có được do quán 12 nhân duyên là
do dựa vào 12 nhân duyên nên có thể chứng và thấy được cái ‘liễu nhân’ của nhân
duyên gồm 8 phủ định, gọi là Phật tánh, kỳ thật nó là cái nhân cho cái nhân của
Phật tánh. Phật tánh vừa là chủng tánh vừa là thể tánh để thành Phật, cho nên
cái quả của Phật tánh là bồ-đề vô thượng. Nhờ sự giác ngộ và chứng đắc bồ-đề vô
thượng nên đắc được sự tịch diệt của niết-bàn lìa mọi chướng ngại, cho nên niết-bàn
là cái quả của cái quả của Phật tánh. Nhưng 12 nhân duyên gồm 8 phủ định –
trung đạo đệ nhất nghĩa không (tánh), là cái chẳng phải là nhân, chẳng phải là
quả, mà là cái thường hằng không biến đổi: đây mới là nghĩa chân thật của Phật
tánh. Đệ nhất nghĩa không là Phật tánh, so với Du-già học lấy tánh không của tất
cả pháp làm Như lai tạng, về đại ý thì gần nhau, chẳng qua kinh này xem trọng về
trung đạo của đệ nhất nghĩa không. Tiếp theo, có 4 cú [trường hợp] khác nhau:
“là nhân mà không phải là quả, như Phật tánh,” hẳn phải là trí huệ có được do
quán 12 nhân duyên (nhân của nhân), “là quả mà không phải là nhân, như đại niết-bàn”
(quả của quả); “vừa là nhân vừa là quả, như pháp do 12 nhân duyên sanh ra,”
chính là pháp do 12 ‘duyên sanh ra’ (paṭicca-samuppanna); “cái mà chẳng phải nhân chẳng phải quả thì được gọi là
Phật tánh,” tức là duyên khởi trung đạo gồm 8 phủ định. Trong 4 cú khác nhau
này, “là nhân mà không phải là quả,” như Phật tánh; “cái mà chẳng phải nhân chẳng
phải quả” cũng gọi là Phật tánh. Trên mặt văn cú, phải nói là còn thiếu khéo léo!
Trung luận sớ của ngài Gia Tường, nói: “Pháp sư La-hầu-la (bạt-đà-la) là
người cùng thời với Long thọ, khi giải thích về 8 phủ định [bát bất], bèn sáng
tác ra 4 đức thường-lạc-ngã-thịnh để giải thích rõ cho nó.”22 Chỉ quán phụ hành truyền hoằng quyết
và Tam luận huyền sớ văn nghĩa yếu đều nói Pháp sư La-hầu-la-bạt-đà-la (Rāhulabhadra) viết Trung luận chú.23 Vào đời Lương, Chân Đế (Paramārtha) từng dịch ra Trung
luận gồm 1 quyển,24 truyền
thuyết của ngài Gia Tường, v.v., đại để do đây mà ra. Pháp sư La-hầu-la dùng
thường-lạc-ngã-tịnh giải thích 8 phủ định, so với tư tưởng của phẩm Sư tử hống
Bồ-tát, hẳn phải là rất gần gũi. Trung đạo gồm 8 phủ định của Trung luận
là do căn cứ theo duyên khởi trung đạo của kinh A-hàm mà ra: phẩm Sư tử
hống Bồ-tát dựa vào đệ nhất nghĩa không để triển khai thành thuyết trung đạo gồm
không và chẳng phải không, có thể nói đó là thuyết trung đạo của tất cả pháp đều
là không của Long thọ đã bước vào khuynh hướng chung của Đại thừa hậu kỳ. Phẩm
Sư tử hống Bồ-tát nói, cũng vẫn là có nguồn gốc từ kinh A-hàm, cho nên
nói: “Trong kinh, Ta nói: 12 nhân duyên có ý nghĩa sâu xa.” Nghĩa sâu xa của 12
nhân duyên là điều được nhiều nơi trong kinh A-hàm nói đến. Kinh Niết-bàn
này lại nói: “Ở trong các kinh, Ta nói: người thấy được 12 nhân duyên tức là thấy
pháp, người thấy pháp tức thấy Phật. Phật ấy tức là Phật tánh, vì sao vậy? Vì tất
cả chư Phật đều lấy nó làm tánh.” Lời kinh đã được dẫn ấy, là kinh Tượng
tích dụ của Trung A-hàm. Nhưng bản kinh được Thượng tọa bộ (Sthavira) truyền, chỉ nói “thấy
duyên khởi thì liền thấy pháp, nếu thấy được pháp thì liền thấy nhân duyên,”(a)
không có nói “thấy pháp tức thấy Phật.”25
Lời được kinh Đại thừa dẫn, đều có câu “thấy pháp tức thấy Phật,” có thể có nguồn
gốc xuất phát từ kinh do Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) truyền. Kinh Niết-bàn này dựa vào lời đó rồi giải
thích thêm, “Phật ấy tức là Phật tánh,” bởi vì Phật là dựa vào cái ‘không’
trung đạo của 12 nhân duyên làm thể tánh. Như vậy, lấy cái ‘không’ – trung đạo
của 12 nhân duyên làm Phật tánh là có nguồn gốc từ kinh A-hàm, trải qua
sự diễn tiến của Long thọ học mà thành.
Theo sự trình bày ở trên, có thể Phật tánh có 2 ý nghĩa: 1) Phật tánh là chủng
tử của bồ-đề vô thượng – có tánh ‘nhân’; 2) Phật tánh là thể tánh của Phật. Cho
nên nguyên ngữ của Phật tánh rất khả năng là buddhadhātu, có thể dịch thành ‘Phật giới’, ‘Phật
tánh’. Ý nghĩa của dhātu – giới, rất nhiều, có nghĩa là ‘nhân’, cũng có nghĩa
là ‘thể tánh’. Căn cứ vào ý nghĩa bao hàm của từ Phật tánh này, cho nên trừ
ngoài 12 nhân duyên, trí huệ có được do quán 12 nhân duyên, nhân duyên gồm 8 phủ
định – trung đạo đệ nhất nghĩa không đã được nói qua rồi, còn nói đến Nhất thừa
(ekayāna), tam-muội thủ-lăng-nghiêm (śūraṃgama-samādhi), 10 lực (daśabala), 4
vô sở úy (catvāri-vaiśāradyāni), đại bi (mahākaruṇā), 3 niệm xứ (trīṇi-smṛty-upasthānāni).26 Ngã (ātman), đại từ (mahā-maitrī), đại
bi (mahākaruṇā), đại hỉ (mahā-mudita), đại xả (mahā -upekṣa), đại tín tâm
(mahā-śraddhā), nhất tử địa (eka-putra-bhūmi), lực thứ tư (caturtha-bala), 12
nhân duyên, 4 loại trí vô ngại (catasra-pratisaṃvida), đảnh tam-muội
(mūrdha-samādhi):27 tất cả
thứ này đều được gọi là Phật tánh. Trong những thứ được gọi là Phật tánh này,
có thứ là quả đức của Phật, là thể tánh của Phật; có thứ là Bồ-tát hành, Bồ-tát
địa, là cái tánh ‘nhân’ của Phật. Bồ-tát hành và công đức của Phật, chúng sanh
thì không có, nhưng “tất cả chúng sanh chắc chắn sẽ được,” dựa theo sự có trong
vị lai để nói, thì: “tất cả chúng sanh thảy đều có Phật tánh.” Duy chỉ có 12
nhân duyên, kinh Niết-bàn này dùng ‘duyên khởi (nhân duyên) là vô vi’ để
nói, cho nên, “12 nhân duyên là thường hằng, Phật tánh cũng vậy.”28 “Phật tánh ấy được gọi là 12 nhân
duyên, vì sao vậy? Vì do nhân duyên nên Như lai thường trụ.” Mười hai nhân
duyên mà được gọi là Phật tánh ấy, là thường trụ không biến đổi, điều này bất đồng
với sự nhất định sẽ được trong vị lai, cho nên nói: “Tất cả chúng sanh nhất định
có 12 nhân duyên như vậy, vì vậy nên nói tất cả chúng sanh thảy đều có Phật
tánh.”29 Như vậy, dựa theo 12 nhân duyên để
nói, thì Phật tánh là thứ mà chúng sanh ‘nhất định có’. Dựa theo Bồ-tát hành,
công đức của Phật để nói, thì Phật tánh là thứ mà chúng sanh ‘sẽ có’. Dựa theo
đệ nhất nghĩa không – trung đạo để nói, thì Phật tánh là ‘tất cả chúng sanh
cùng có nó’, nhưng điều này khác với sự tưởng tượng của thế tục, cho nên trong
kinh phá bỏ chủ trương ‘trong nhân có tánh’, ‘trong nhân không có tánh’. Kinh
trên 30nói:
1. “Phật tánh của
chúng sanh là thứ không bị phá, không bị hoại, không bị dắt dẫn, không bị nắm bắt,
không bị trói, không bị buộc, giống như hư không có ở trong chúng sanh.”
2. “Phật tánh
‘Sao gọi là có? Vì tất cả chúng sanh thảy đều có. Vì sao gọi là không có? Vì
theo phương tiện khéo léo nên thấy được. Sao gọi là chẳng phải có, chẳng phải
không có? Vì tánh giống như hư không.”
3. “Phật tánh ấy
chẳng phải là ấm-giới-nhập (chẳng phải lìa khỏi ấm-giới nhập); chẳng phải là
trước đó không có mà nay mới có, chẳng phải đã có rồi trở thành không có; nhờ
nhân duyên lành nên chúng sanh thấy được.”
4. “Phật tánh ấy
chẳng phải ở trong, chẳng phải ở ngoài, tuy chẳng phải ở trong hay ngoài nhưng
chẳng phải là thứ bị mất hay hư hoại, nên gọi là chúng sanh thảy đều có Phật
tánh.”
5. “Bởi do chánh
nhân nên khiến cho chúng sanh đắc được a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Cái gì
là chánh nhân? Đó là cái được gọi Phật tánh.”
6. “Phật tánh của
chúng sanh là thứ chẳng phải là một, chẳng phải là hai; chư Phật đều bình đẳng,
(Phật tánh) giống như hư không, tất cả chúng sanh đều có chung nó.”
Chánh nhân của Phật
tánh là cái ‘tất cả chúng sanh cùng có chung’, đương nhiên có thể nói là ‘thảy
đều có’. Nhưng Phật tánh giống như hư không, chẳng phải một, chẳng phải khác
nhau, chẳng phải ở bên trong, chẳng phải ở bên ngoài, thường trụ mà chẳng phải
bị thâu tóm bởi 3 đời, cho nên có thể nói có, cũng có thể nói không có, có thể
nói chẳng phải có chẳng phải không có. Tất cả chúng sanh cùng có chánh nhân Phật
tánh, nhưng đối với sự thành Phật, quyển 32 của kinh Đại Bát-niết-bàn
(T. 12, tr. 555b-c) nói:
“Này Thiện nam tử!
Ngươi nói chúng sanh thảy đều có Phật tánh, thì hẳn phải đắc được a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề,
giống như viên đá nam châm. Lành thay! Lành thay! Bởi có lực nhân duyên của Phật
tánh nên đắc được a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Nếu nói rằng không cần phải
tu Thánh đạo, thì nghĩa ấy không đúng! Này Thiện nam tử! … Phật tánh của chúng
sanh cũng giống như thế, không thể hấp dẫn được a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề.”
Trung đạo đệ nhất
nghĩa không – chánh nhân Phật tánh, mặc dầu có thể nói rằng đó là thứ mà tất cả
chúng sanh cùng có chung; cũng do Phật tánh nên chúng sanh đều có thể thành Phật.
Nhưng sự thành Phật vẫn cần phải tu hành Thánh đạo. Bởi vì đệ nhất nghĩa tánh
không của nhân duyên là thứ thường trụ chẳng biến đổi, và không thể hấp dẫn
chúng sanh để thành tựu Phật đạo. Nếu không, tất cả chúng sanh cùng có Phật
tánh, dù có Phật [xuất hiện] hay không [xuất hiện], thì pháp tánh vẫn thường trụ,
thì tất cả chúng sanh đều đã phải sớm thành Phật rồi! Tóm lại, Phật tánh, Bồ-tát
hành và công đức của Phật, mà phẩm Sư tử hống Bồ-tát đã nói, là cái ‘sẽ có’;
chánh nhân Phật tánh là cái ‘sẽ thấy’, ‘thảy đều có’, là cách nói bất đồng với
thuyết Như lai tạng, có khả năng khiến cho chúng sanh chán sự khổ nên cầu niết-bàn
mà kinh Thắng man đã nói. Từ sự lý giải về đệ nhất nghĩa không tánh
(cũng chính là vô tánh), đối với những thuyết phổ biến, như thuyết chúng sanh vốn
có Như lai tạng, ngã, Phật tánh, đã cho nó sự tu chính để phê phán.
Học giả Thiên Thai đã dựa vào kinh Niết-bàn
lập nên 3 nhân của Phật tánh: chánh nhân Phật tánh, liễu nhân Phật tánh, duyên
nhân Phật tánh,(b) so với kinh Niết-bàn,
có lẽ nói được tốt hơn! Nếu căn cứ vào bản văn của kinh Niết-bàn, về tổng
quát, những điều được trình bày ấy có một ít bất đồng. Trong phẩm Sư tử hống Bồ-tát
đã nhiều lần nói đến 2 nhân khác nhau: hoặc là sanh nhân và liễu nhân, hoặc là
chánh nhân và duyên nhân, hoặc là chánh nhân và liễu nhân. Nếu như tổng hợp lại,
thì có sanh nhân, liễu nhân, chánh nhân, duyên nhân – 4 danh từ khác nhau. Kinh
trên31 nói:
1. “Phật tánh… là
thường, có thể nhận thấy được, là liễu nhân chứ không phải là tác (đồng nghĩa với
‘sanh’) nhân.”
2. “Chánh đạo có
khả năng làm liễu nhân cho Phật tánh của tất cả chúng sanh, mà không làm sanh
nhân, giống như ánh sáng của đèn chiếu rõ sự vật.”
3. “Duyên nhân, ấy
tức là liễu nhân.”
Chánh nhân của Phật
tánh là thứ mà hàng Bồ-tát Thập trụ và Phật có thể chứng và thấy được, nhưng cần
phải từ duyên hiển lộ ra. Chánh nhân của Phật tánh là thứ thường trụ, cho nên
không phải sanh ra do sanh nhân, mà là do liễu nhân nhận thấy rõ. Từ duyên hiển
lộ ra, cho nên “duyên nhân, ấy tức là liễu nhân.” Chánh đạo là 8 (chi) chánh đạo
(āryāṣṭāṅga-mārga), trong các bộ phái có thuyết ‘các chi của đạo là thứ thuộc
vô vi’. Kinh Niết-bàn này cũng nói Thánh đạo vô lậu là “bình đẳng, không
có hai, không có sự khác nhau giữa nơi này và nơi khác.”32 Phẩm Phạm hành cũng nói: đạo và bồ đề,
và đến cả niết-bàn, thảy đều được gọi là thường.”33 Thánh đạo là thường, cho nên là liễu
nhân của Phật tánh. Dựa theo cái tánh ‘nhân’ của Phật để nói, thì Phật tánh có
chánh nhân và liễu nhân (liễu nhân chính là duyên nhân). Nếu như dựa theo thể
tánh của Phật để nói, thì có sự bất đồng giữa các thuyết. Kinh trên từng có một
cuộc vấn đáp rằng: “Nếu Phật và Phật tánh không có sai biệt, thì tất cả chúng
sanh cần gì phải tu đạo? Phật đáp: Này Thiện nam tử! Theo như lời ngươi đã hỏi,
thì nghĩa này không đúng. Phật và Phật tánh tuy không có sai biệt, nhưng các
chúng sanh thảy đều chưa có đầy đủ.”34
Ở đây là nói: dựa theo đệ nhất nghĩa không – trung đạo để nói, thì Phật và Phật
tánh không có sai biệt; nhưng Phật tánh là cái chánh nhân để chúng sanh thành
Phật, so với Phật là bậc viên mãn rốt ráo – (đắc) a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề,
rốt cục không thể so sánh với nhau được, nên phải có liễu nhân và sanh nhân,
như quyển 28 của kinh Đại Bát-niết-bàn (T. 12, tr. 530a) nói:
“Lại có sanh
nhân, đó là 6 ba-la-mật của a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề.”
“Lại có liễu
nhân, đó là Phật tánh của a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề.”
“Lại có liễu
nhân, đó là 6 ba-la-mật của Phật tánh.”
“Lại có sanh
nhân, đó là tam-muội thủ-lăng-nghiêm của a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề.”
“Lại có liễu
nhân, đó là 8 chánh đạo của a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề.”
“Lại có sanh
nhân, đó là cái được gọi là tín tâm về 6 ba-la-mật.”
A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề
là quả của Phật, là trung đạo đệ nhất nghĩa không nên được thành tựu vô lượng
vô biên công đức. Cho nên tu 6 ba-la-mật, tam-muội thủ lăng nghiêm, đối với a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề,
chúng là sanh nhân. Phật tánh và 8 chánh đạo là thứ thường trụ, cho nên đối với
a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, chúng là liễu nhân mà không phải là sanh nhân.
Chánh nhân của Phật tánh là thứ thường trụ, không phải là thứ sanh ra do sanh
nhân, cho nên tu 6 ba-la-mật (trí quán ở bên trong), hiển lộ ra Phật tánh, chỉ
có thể nói nó là liễu nhân. Tín tâm đối với 6 ba-la-mật, đương nhiên đã là sanh
nhân. Theo đây có thể thấy rằng, trí quả, a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, của
phẩm Sư tử hống Bồ-tát, không chỉ là do liễu nhân nhận thức rõ, mà cũng là do
sanh nhân sanh ra. Điều mà kinh văn đã nói, không có đầy đủ và khéo léo như các
học giả Thiên thai đã nói!
Phần thứ 3 là phẩm
Ca-diếp Bồ-tát, tổng cộng có 6 quyển. đối với việc chúng sanh có Phật tánh, các
tỉ dụ như nhà nghèo có kho báu, viên ngọc châu nơi cổ của người lực sĩ, v.v., tất
cả những điều mà kinh Niết-bàn đã từng nói qua ở trên, dường như đều
không có giải thích mới. Phương châm để giải thích là: đức Như lai tùy theo căn
cơ nên thuyết pháp không nhất định; lại nêu ‘tùy theo ý kẻ khác mà nói’, ‘tùy
theo ý của mình và kẻ khác mà nói’, ‘đức Như lai tùy theo ý mình mà nói’ để kết
nối lại những giải thích bất đồng. Trong khi giải thích để kết nối lại, xem trọng
về thuyết nhân duyên nên đã biểu hiện ra điểm đặc sắc của phẩm này. Phật tánh,
có tánh ‘nhân’ của Phật, có tánh ‘thể’ của Phật – 2 nghĩa. Phật tánh của đức
Như lai, như kinh trên35 nói:
1. “Tám vạn ức
các môn tam-muội gồm 10 lực, 4 vô sở úy, đại từ đại bi, 3 niệm xứ, thủ-lăng-nghiêm,
v.v., và 32 tướng, 80 vẻ đẹp, 5 trí ấn, v.v.,… của Như lai, các pháp như vậy đều
là Phật tánh của Phật.”
2. “Này Thiện nam
tử! Như lai đã đắc a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, Phật tánh mà Như lai có, tất
cả Phật pháp đều thường, không có biến đổi, bởi do nghĩa này nên không có 3 đời,
giống như hư không. Này Thiện nam tử! Vì hư không là thứ không có gì nên chẳng
phải ở trong, chẳng phải ở ngoài, vì Phật tánh là thường hằng nên chẳng phải ở
trong, chẳng phải ở ngoài, vì thế nói Phật tánh giống như hư không. Này Thiện
nam tử! Giống như trong thế gian, chỗ mà không có thứ gì gây chướng ngại thì được
gọi là hư không, Như lai đắc được a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, đã ở nơi tất
cả Phật pháp không có chướng ngại, nên nói rằng Phật tánh giống như hư không.”
Phật tánh là thể
tánh của Phật, đã hàm chứa tất cả công đức của Như lai. Trong quả vị Phật, “vì
Phật tánh là thường [hằng] nên chẳng phải là thứ thuộc về 3 đời,” khi đạt đến sự
viên mãn rốt ráo thì không có sự biến đổi nào thêm nữa, cũng sẽ không có quá khứ,
hiện tại, vị lai để có thể diễn tả. Trước khi đạt được quả vị Phật, Phật tánh của
hậu thân Bồ-tát – Thập trụ, v.v., và Phật tánh của Phật, sai biệt như thế này:36
Khi bàn đến Phật tánh của chúng sanh, quyển 37
của kinh Đại Bát-niết-bàn (T. 12, tr. 581a) nói:
“Cái chẳng phải là Phật tánh, đó là tất cả các
vật được gọi là vô tình như tường vách, gạch đá, v.v.; trừ những vật vô tình
như vậy ra, còn lại đều được gọi là Phật tánh.”
Phật tánh và chúng sanh có mối quan hệ không
thể tách rời, chỉ có chúng sanh mới có thể hướng đến, làm hiển lộ rõ để thành tựu
Phật tánh. Mặc dù chúng sanh đều không bằng với Phật tánh, nhưng có thể nói như
thế này: “Chúng sanh tức là Phật tánh, Phật tánh tức là chúng sanh, chỉ bởi
khác biệt về thời gian nên có tịnh và bất tịnh.”37
Điều mà phẩm Sư tử hống Bồ-tát nói, Phật tánh của chúng sanh có “chánh nhân ấy
đó là các chúng sanh,”38 cũng
là nhằm ý này. Sự tịnh hay bất tịnh của Phật tánh chúng sanh, so với điều mà
kinh Bất tăng bất giảm đã nói: Pháp thân (dharma-kāya), khi ở trong phiền
não, được gọi là chúng sanh; khi tu tập bồ-đề hành thì gọi là Bồ-tát, khi lìa
khỏi chướng đạt được sự thanh tịnh rốt ráo thì gọi là Như lai:39 có ý nghĩa gần gũi nhau. Luận Bảo
tánh cũng dựa theo Như lai giới (tathāgata-dhātu) – Như lai tánh, nói có 3
địa vị gồm bất tịnh, vừa tịnh vừa bất tịnh, tịnh.40 Phật tánh của chúng sanh, thuyết trung
đạo mà luận này đề xuất, cũng chính là có thể nói có, nói không có, nói cũng có
cũng không có, chẳng phải có chẳng phải không có. Như kinh41 nói:
1. “Phật tánh của chúng sanh chẳng phải có chẳng
phải không có. Vì sao vậy? Phật tánh tuy có, chẳng phải giống như hư không… Phật
tánh tuy không có, nhưng khác với sừng thỏ… Vì vậy Phật tánh chẳng phải có chẳng
phải không có, cũng có cũng không có. Vì sao gọi là có? Tất cả (chúng sanh) thảy
đều có, các chúng sanh này chẳng đoạn, chẳng diệt, giống như ngọn lửa của đèn,
cho đến đắc a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, vì vậy gọi là có. Vì sao gọi là
không có? Hiện tại, tất cả chúng sanh đều chưa có tất cả pháp, chưa có thường, lạc, ngã, tịnh, vì vậy gọi là không có. Vì hữu và vô kết
hợp với nhau tức là trung đạo, vì vậy Phật nói rằng Phật tánh của chúng sanh chẳng
phải có chẳng phải không có. … Vì vậy ở trong kinh này, Như lai nói như thế
này: [nếu khẳng định] tất cả chúng sanh nhất định có Phật tánh, thì đó gọi là
chấp trước; nếu [khẳng định] không có Phật tánh, thì đó gọi sai lầm: người có
trí cần phải nói rằng Phật tánh của chúng sanh cũng có cũng không có.”
2. “Này Thiện nam tử! Nếu có người nói rằng: tất
cả chúng sanh nhất định có Phật tánh, có thường, lạc, ngã, tịnh, Phật tánh ấy
không hành động, không sanh ra, vì nhân duyên phiền não nên không thể thấy được,
cần phải biết rằng người này phỉ báng Phật Pháp Tăng. Nếu có người nói rằng: tất
cả chúng sanh đều không có Phật tánh, giống như sừng thỉ, từ phương tiện sanh
ra, trước kia vốn không có mà nay mới có, đã có rồi trở lại thành không có, cần
phải biết rằng người này phỉ báng Phật Pháp Tăng. Nếu có người nói rằng: Phật
tánh của chúng sanh chẳng phải có giống như hư không, chẳng phải không có giống
như sừng thỏ… Vì vậy được nói là cũng có cũng không. Vì có nên phá [cái chấp
không có, giống như] sừng thỏ, vì không có nên phá [cái chấp có, giống như] hư
không, người nói như vậy thì không phỉ báng Tam bảo.”
“Chúng sanh
nhất định có Phật tánh,” giống như thông thường nói tất cả chúng sanh có Như
lai tạng, có đầy đủ trí huệ trang nghiêm giống như Phật, thì không thể được phẩm
này đồng ý! Nhưng cũng có thể nói chúng sanh có Phật tánh, như kinh trên42 nói:
1. “Ta thường
tuyên thuyết rằng tất cả chúng sanh thảy đều có Phật tánh, đó gọi là tùy theo ý
của mình mà nói. Tất cả chúng sanh chẳng đoạn chẳng diệt, cho đến đắc a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề,
đó gọi là tùy theo ý của mình mà nói.”
2. “Vì sao gọi
là có (Phật tánh)? Vì tất cả đều có, các chúng sanh này chẳng đoạn, chẳng diệt,
giống như ngọn lửa của đèn, cho đến đắc a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, vì vậy
gọi là có.”
3. “Tất cả
các loại kết gồm vô minh, phiền não, v.v., thảy đều là Phật tánh. Vì sao vậy?
Vì do cái nhân của Phật tánh. Từ vô minh, hành và các phiền não, đắc được 5 ấm
thiện, nên gọi là Phật tánh. Từ 5 ấm thiện, cho đến đạt được a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề.”
‘Tất cả chúng
sanh thảy đều có Phật tánh’, không phải trong thân chúng sanh đã có thứ gì đó,
như chủng tử vô lậu, những công đức phù hợp với tánh, v.v. và v.v., mà là từ
nhân duyên nối dài chẳng dứt chẳng diệt của chúng sanh từ vô thỉ đến ngày nay để
hiểu rõ. Cho dù là phiền não, thì phiền não cũng có thể cảm ứng được quả báo
lành thuộc cõi người, cõi trời – ‘5 ấm thiện’. Nhờ 5 ấm thiện nên có thể gần
gũi bạn lành, nghe được chánh pháp, một mạch cho đến khi viên mãn Phật tánh.
Chúng sanh ở trong dòng sông 12 nhân duyên, sanh tử trôi lăn, từ đầu chí cuối đều
là giống nhau, nối tiếp nhau chẳng đoạn chẳng diệt. Giống như ngọn lửa của đèn,
trước và sau có mối quan hệ chẳng liền nhau, chẳng lìa nhau, chẳng phải là một,
chẳng phải khác nhau. Nếu không có vô minh, hành, v.v., thì không có chúng sanh
sanh tử; không có chúng sanh thì không có Phật, không có sanh tử thì còn ở đâu
có niết-bàn! Cho nên, không chỉ là pháp thiện, mà phiền não, v.v., cũng là Phật
tánh, là cái nhân để Phật tánh nương tựa. Căn cứ vào quan điểm này, quyển 36 của
kinh Đại Bát-niết-bàn (T. 12, tr. 579b, 580c) nói:
“Trong đại
niết-bàn vi diệu như vậy, từ nhất-xiển-đề, lên đến chư Phật, tuy có tên gọi
khác nhau nhưng cũng không rời khỏi nước Phật tánh. Này Thiện nam tử! Bảy loại
chúng sanh này, hoặc pháp thiện, hoặc pháp bất thiện; hoặc đạo phương tiện, hoặc
đạo giải thoát, hoặc đạo thứ đệ, hoặc nhân, hoặc quả, thảy đều là Phật tánh, đó
gọi là Như lai tùy theo ý của mình mà nói.”
“Khi chưa đắc
được a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, thì tất cả thiện, bất thiện, vô ký, hết thảy
đều được gọi là Phật tánh.”
Bộ phận được
dịch tiếp tục của kinh Niết-bàn, đối với các luận đề căn bản như ‘Như
lai thường trụ’, ‘thường, lạc, ngã, tịnh’, ‘tất cả chúng sanh thảy đều có Phật
tánh’, v.v., đều đã cho chúng những giải thích khéo léo. Năm phẩm đầu sử dụng
nhiều ý của kinh Bát-nhã; phẩm Sư tử hống Bồ-tát đã tham khảo thuyết bát
bất của Trung luận; phẩm Ca-diếp Bồ-tát căn cứ vào thuyết nhân duyên. Bổn
hữu luận chủ trương chúng sanh có Như lai tạng, đến đây đã trở nên nhạt đi đến mức
còn không thấy nữa. Ngược lại, chỉ trích rõ ràng: “Nếu có người nói tất cả
chúng sanh nhất định có Phật tánh, [Phật tánh ấy] có thường, lạc, ngã, tịnh,
không hành động, không sanh ra, vì nhân duyên phiền não nên không thấy được, cần
phải biết rằng người này phỉ báng Phật Pháp Tăng.”43 Người xưa nói: kinh Niết-bàn
‘phù Luật đàm thường’,(c) sự ủng hộ Luật và Luật chế của Thanh văn
có quan hệ với nhau. Kinh Niết-bàn cũng dẫn rộng lời của các kinh khác,
chủ yếu là kinh A-hàm, rồi cho nó sự giải thích độc đáo. Bộ phận được dịch
tiếp tục sử dụng nhiều ‘danh tướng’ của Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin),
đặc biệt là phẩm Ca-diếp Bồ-tát; ý nghĩa ‘ba đời là có [tồn tại]’ cũng đã được
trích dẫn, đây là điều không được các học giả kinh Niết-bàn chú ý lắm!
Thuyết Như lai tạng, kinh Thắng man, v.v., cùng với thuyết ‘tâm tánh vốn
thanh tịnh’ - ‘tự tánh thanh tịnh tâm’ (prakṛti-prabhāsvara-citta) kết hợp thành một dòng, cuối cùng kết
hợp chung với thuyết thức a-lại-da (ālaya-vijñāna). Thuyết Phật tánh của kinh Niết-bàn,
vì xem trọng thuyết nhân duyên của kinh A-hàm, tham khảo và sử dụng tư
tưởng của Bát-nhã, Trung luận, v.v., để giải thích, cho nên so với
thuyết Như lai tạng có khuynh hướng duy tâm, thì trên mặt tư tưởng, nó đã đặt
chân trên con đường tắt khác rồi mạnh tiến tới trước. Kinh Niết-bàn không
nói ‘sanh tử tư1c là niết-bàn’, ‘phiền não tức là bồ-đề’, cũng không nói ‘trong
một pháp đã có đủ tất cả pháp’, ‘trong một hành động đã có tất cả hành động’, đại
khái nó tuyên thuyết rằng Như lai thường trụ, đã thành Phật từ lâu, cho nên
Thiên Thai học xem nó cùng là Viên giáo như kinh Pháp hoa. “[Khi] căn cơ
viên [đốn] thích hợp với giáo, thì không có giáo nào là không viên,” tác gia có
nhãn quan đủ viên dung, cần phải nói bộ kinh này là thuộc Viên giáo, thì đương
nhiên nó chính là thuộc Viên giáo vậy!
(I) Lăng-già a-bạt-đa-la
bảo kinh 2,
T. 16, tr. 489a-b.
1
Lăng-già kinh 3, T. 16, tr. 529b.
2
Đại Bát-niết-bàn kinh 7, T. 12, tr. 407b.
3
Cứu cánh Nhất thừa bảo tánh luận 1, T. 31, tr. 816a-b.
4
Cứu cánh Nhất thừa Bảo tánh luận 4, T. 31, tr. 840c.
5
Phật tánh luận 1, T. 31, tr. 787b.
6
Hiển dương Thánh giáo luận 17, T. 31, tr. 562b.
(b) Skt: kuśalākuśalāḥ
punarmahāmate yaduta aṣṭau vijñānāni /
katamānyaṣṭau? yaduta tathāgatagarbha ālayavijñānasaṃśabdito
mano manovijñānaṃ ca pañca ca vijñānakāyāstīrthyānuvarṇitāḥ /
(c) Skt: ayaṃ tathāgatagarbhālayavijñānagocaraḥ
sarvaśrāvakapratyekabuddhatīrthyavitarkadarśanānāṃ prakṛtipariśuddho
'pi san aśuddha ivāgantukleśopakliṣṭatayā teṣāmābhāti
(d) Skt : etadeva mahāmate
mayā śrīmālāṃ devīmadhikṛtya deśanāpāṭhe anyāṃśca sūkṣmanipuṇaviśuddhabuddhīn
bodhisattvānadhiṣṭhāya tathāgatagarbha
ālayavijñānasaṃśabditaḥ saptabhirvijñānaiḥ
saha pravṛttyabhiniviṣṭānāṃ śrāvakāṇāṃ
dharmanairātmyapradarśanārthaṃ śrīmālāṃ devīmadhiṣṭhāya tathāgataviṣayo
deśito na śrāvakapratyekabuddhānyatīrthakaratarkaviṣayo
'nyatra mahāmate tathāgataviṣaya eva tathāgatagarbha
ālayavijñānaviṣayastvatsadṛśānāṃ ca sūkṣmanipuṇamatibuddhiprabhedakānāṃ
bodhisattvānāṃ mahāsattvānāmarthapratiśaraṇānāṃ no tu
yathārutadeśanāpāṭhābhiniviṣṭānāṃ sarvānyatīrthyaśrāvakapratyekabuddhānām /
9 Nhiếp Đại thừa luận bổn, q. thượng, T. 31, tr. 133b. Nhiếp Đại thừa luận, q. thượng, T. 31, tr. 97b. Nhiếp Đại thừa luận, q. thượng, T. 31, tr. 114a. Nhiếp Đại thừa luận thích luận 1, T. 31, tr. 273b.
10 Giải thâm mật kinh 1, T. 16, tr. 692b. Thâm mật giải thoát kinh
1, T. 16, tr. 669a.
(e) Skt : tathāgatagarbho
mahāmate kuśalākuśalahetukaḥ
sarvajanmagatikartā pravartate naṭavadgatisaṃkaṭa ātmātmīyavarjitaḥ
/ tadanavabodhātrisaṃgatipratyayakriyāyogaḥ
pravartate / na ca tīrthyā avabudhyante kāraṇābhiniveśābhiniviṣṭāḥ / anādikālavividhaprapañcadauṣṭhulyavāsanāvāsitaḥ ālayavijñānasaṃśabdito
'vidyāvāsanabhūmijaiḥ saptabhirvijñānaiḥ
saha mahodadhitaraṃgavannityamavyucchinnaśarīraḥ
pravartate anityatādoṣarahita ātmavādavinivṛtto
'tyantaprakṛtipariśuddhaḥ
13 Lăng-già a-bạt-đa-la bảo kinh 4, T. 31, tr. 510b. Đại thừa Nhập Lăng-già kinh 5, T. 16, tr. 619c. Nhập Lăng-già kinh 7, T. 16, tr. 556c.
(f) yogināṃ vimokṣabuddhirbhavatyapravṛtteḥ
// aparāvṛtte ca tathāgatagarbhaśabdasaṃśabdite ālayavijñāne nāsti
saptānāṃ pravṛttivijñānānāṃ nirodhaḥ / tatkasya hetoḥ? taddhetvālambanapravṛttatvādvijñānānām,
(g) tasmāttarhi mahāmate
tathāgatagarbhaḥ ālayavijñānasaṃśabdito
viśodhayitavyo viśeṣārthibhirbodhisattvairmahāsattvaiḥ
// yadi hi mahāmate ālayavijñānasaṃśabditastathāgatagarbho
'tra na syāditi asati mahāmate tathāgatagarbhe
ālayavijñānasaṃśabdite na pravṛttirna nivṛttiḥ
syāt //
(h) udadheḥ pariṇāmo 'sau taraṃgāṇāṃ
vicitratā / ālayaṃ hi tathā citraṃ
vijñānākhyaṃ pravartate // Lank_2.103 //
16 Lăng-già a-bạt-đa-la bảo kinh 4, T. 16, tr. 510c. Nhập Lăng-già kinh 7, T. 16, tr. 557a. Đại thừa Nhập Lăng-già kinh 5, T. 16, tr. 620a.
(k) Skt: tasmād bhagavaṃs tathāgatagarbho niśraya ādhāraḥ pratiṣṭhā saṃbaddhānām avinirbhāgānām amuktajñānānām asaṃskṛtānāṃ dharmāṇām | asaṃbaddhānām api bhagavan vinirbhāgadharmāṇāṃ muktajñānānāṃ saṃskṛtānāṃ dharmāṇāṃ niśraya ādhāraḥ pratiṣṭhā tathāgatagarbha iti | Ratnagotravibhāg. Luận này không dẫn câu: “Như lai tạng lìa tướng hữu vi, Như lai tạng
thường trụ bất biến.”
(l) Skt: tathāgatagarbhaś ced bhagavan na syān na syād duḥkhe ’pi nirvinna nirvāṇecchā prārthanā praṇidhir veti
vistaraḥ | Ratnagotravibhāgo.
Luận này không dẫn câu trả lời.
17 Đại Bảo tích kinh 119, Thắng man phu nhân hội, T. 11, tr. 677c. Cứu cánh
Nhất thừa Bảo tánh luận 4, đã dẫn văn, T. 31, tr. 840a.
(m) atha khalu mahāmatirbodhisattvo mahāsattvaḥ
punarapi bhagavantamadhyeṣate sma - deśayatu me bhagavān, deśayatu
me sugataḥ skandhadhātvāyatanānāṃ pravṛttinivṛttim
/ asatyātmani kasya pravṛttirvā nirvṛttirvā? bālāśca
pravṛttinivṛttyāśritā duḥkhakṣayānavabodhānnirvāṇaṃ na
prajānanti /
(n) bhagavāṃstasyaitadavocat - tathāgatagarbho
mahāmate kuśalākuśalahetukaḥ
sarvajanmagatikartā pravartate naṭavadgatisaṃkaṭa ātmātmīyavarjitaḥ
/ tadanavabodhātrisaṃgatipratyayakriyāyogaḥ
pravartate / na ca tīrthyā avabudhyante kāraṇābhiniveśābhiniviṣṭāḥ / anādikālavividhaprapañcadauṣṭhulyavāsanāvāsitaḥ ālayavijñānasaṃśabdito
'vidyāvāsanabhūmijaiḥ saptabhirvijñānaiḥ
saha mahodadhitaraṃgavannityamavyucchinnaśarīraḥ
pravartate anityatādoṣarahita ātmavādavinivṛtto
'tyantaprakṛtipariśuddhaḥ
(o) tadyathā mahāmate
ghaṭakapālābhāvo ghaṭakṛtyaṃ na karoti,
nāpi dagdhabījamaṅkurakṛtyaṃ karoti, evameva mahāmate ye
skandhadhātvāyatanabhāvā
niruddhā nirudhyante nirotsyante, svacittadṛśyavikalpadarśanāhetutvānnāsti
nairantaryapravṛttiḥ //
22 Cứu cánh nhất thừa Bảo tánh luận 1, T.
31, tr. 814a-b.
(r) catvāri mahābhūtānyupādāya
jananasaṃniśrayapratiṣṭhopastaṃbh-opabṛṃhaṇahetutvena / Abhidharmasamuccayabhāṣyam. Luận Câu-xá cũng dẫn: “jananānniśrayāt sthānādupastambhopavṛṃhaṇāt”| Abhidharmakośa
(t) kṣaṇikaṃ punarmahāmate ālayavijñānaṃ
tathāgatagarbhasaṃśabditaṃ manaḥsahitaṃ pravṛttivijñānavāsanābhiḥ kṣaṇikamanāsravavāsanābhirakṣaṇikam
/ na ca bālapṛthagjanā avabudhyante kṣaṇikavādābhiniviṣṭā kṣaṇikākṣaṇikatāmimāṃ
sarvadharmāṇām / tadanavabodhāducchedadṛṣṭyā asaṃskṛtānapi
dharmānnāśayiṣyanti /
(u) yadi punarmahāmate abhisamayaprāptiḥ kṣaṇikā syāt, anāryatvamāryāṇāṃ syāt / Ý
câu này là nếu cho rằng các pháp đều sanh diệt trong từng
sát-na thì khi một vị nào đó chứng đắc được đạo, thì
sự trạng thái chứng đắc đó cũng diệt
ngay trong sát-na ấy. Mà sự chứng đắc bị diệt mất thì vị đó cũng trở
lại là phàm phu chứ không phải là Thánh nữa. Ở đoạn sau
Phật phủ định cách hiểu này, và đưa ra
ví dụ rằng, đã là vàng, kim cương, hay xá-lợi của Phật thì dù trong điều kiện
nào nó cũng không đánh mất đi tính
chất của nó. Cũng vậy, đã chứng đắc rồi
thì không trở lại thành phàm phu nữa.
(w) Skt: parikarmabhūmiriyaṃ mahāmate
gotravyavasthā / Người ‘sơ trị địa - parikarmabhūmi’ là
người mới phát tâm tu hành.
1 Xuất Tam tạng ký tập 14, T. 55, tr. 103b; và q. 9, tr. 60a.
4 Đại Bát-niết-bàn kinh 27, T. 12, tr. 525a.
5 Đại Bát-niết-bàn kinh 39, T. 12, tr. 591b ; q.
30, tr. 544c: ngoại đạo tín tin tưởng, thọ trì và xuất gia, ý hướng tương đồng.
6 Đại Bát-niết-bàn kinh 28, T. 12, tr. 531b.
7 Đại Bát-niết-bàn kinh, T. 12: 1) q. 23, tr. 502c. 2) q. 32, tr. 556a. 3) q. 13, tr. 441a. 4) q.
39, tr. 596a. 5) q. 38, tr. 590a.
11 Đại Bát-niết-bàn
kinh, T. 12: 1) q. 18, tr.
468c. 2) q. 21,
tr. 747b-c. 3) q. 26, tr. 521b. 4) q. 26, tr. 519b-c.
12 Đại Bát-niết-bàn kinh 25, T. 12, tr. 513a.
13 Đại Bát-niết-bàn kinh 26, T. 12, tr. 521b.
14 Đại Bát-niết-bàn kinh 14, T. 12, tr. 449a.
15 Đại Bát-niết-bàn kinh 17, T. 12, tr. 463c.
16 Đại Bát-niết-bàn kinh 25, T. 12, tr. 513c.
17 Đại Bát-niết-bàn kinh 26, T. 12, tr. 519b.
(a) Sơ phần, tức phần do ngài Đàm-mô-sấm
dịch lần đầu.
18 Tạp A-hàm kinh 13, T. 2, tr. 92c. Đại
Bát-niết-bàn kinh 16, T. 12, tr. 461c.
19 Đại trí độ
luận 35, T.
25, tr. 319a; và q. 57, tr. 465c.
20 Đại trí độ
luận 37, T. 25,
tr. 335a.
21 Huệ nhãn của hàng Bồ-tát đều không
thấy gì, như Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa
kinh 404 (phần
thứ 2), T. 7, tr. 21c. Huệ nhãn của hàng Bồ-tát chẳng phải thấy, chẳng phải chẳng
thấy, như Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa
kinh 8 (phần đầu), T. 5,
tr. 43b.
22 Trung quán luận sớ 3, T. 42, tr. 40c.
23 Chỉ quán phụ hành truyền hoằng quyết,
phần 1 của q. 1, T. 46, tr. 149c. Tam luận huyền sớ văn
nghĩa yếu 2, T. 70, tr. 229c.
24 Lịch đại Tam bảo kỉ 11, T. 49, tr. 99a.
(a) Pāli: ‘‘yo
paṭiccasamuppādaṃ passati so dhammaṃ passati; yo dhammaṃ passati so paṭiccasamuppādaṃ
passatī’’ti. PTS: M.1.28,190.
25 Trung A-hàm kinh 7, Tượng tích dụ kinh,
T. 1, tr. 467a. Trung bộ, (28) Tượng tích dụ kinh, Nam truyền 9, tr.
339.
26 Đại Bát-niết-bàn kinh 27, T. 12, tr. 524c-525c.
27 Đại Bát-niết-bàn kinh 32, T. 12, tr. 556c-557a.
28 Đại Bát-niết-bàn kinh 28, T. 12, tr. 533b.
29 Đại Bát-niết-bàn kinh 32, T. 12, tr. 557a.
30 Đại Bát-niết-bàn kinh, T. 12: 1) q. 28, tr. 531b. 2) q. 27, tr. 526a. 3) q. 27, tr. 526b. 4) q.
28, tr. 530b. 5) q. 28, tr. 532a. 6) q. 29, tr. 539a.
(b) Ba nhân của Phật tánh: 1) chánh nhân Phật tánh, là cái chân
như chân chánh, lìa tất cả tà vạy, lỗi lầm, nhờ nó nên thành tựu được quả
đức của Pháp thân; 2) liễu nhân Phật tánh, soi thấy rõ cái lý và trí của
chân như, dựa vào nó mà thành tựu được quả đức của
bát-nhã; 3) duyên nhân Phật tánh, nhờ duyên vào cái liễu nhân để khai
mở tất cả thiện căn công đức của ‘chánh nhân’, dựa
vào nó nên thành tựu được cái đức của giải thoát.
36 Đại Bát-niết-bàn kinh 35, T. 12, tr. 571a-b.
37 Đại Bát-niết-bàn kinh 35, T. 12, tr. 572b-c.
38 Đại Bát-niết-bàn kinh 28, T. 12, tr. 530c.
39 Bất tăng bất giảm kinh, T. 16, tr. 467b.
40 Cứu cánh Nhất thừa Bảo tánh luận 31, T.
31, tr. 832a-b.
41 Đại Bát-niết-bàn kinh, T. 12: 1) q. 35, tr. 572b.
2) q. 36, tr. 580c.
42 Đại
Bát-niết-bàn kinh, T. 12: 1) q. 35, tr. 573c. 2) q. 35, tr. 572b. 3) q. 35, tr. 571b-c.
43 Đại
Bát-niết-bàn kinh 36, T. 12, tr. 580c.
(c) Phù luật đàm thường giáo (扶律談常教): Giáo pháp trợ giúp cho giới luật, nói Phật tánh là thường
trụ, tông Thiên Thai gọi đó là giáo
thuyết của kinh Niết-bàn. Cuối đời của đức Thế tôn có những tỳ-kheo xấu, phá giới luật, đức Như
lai dạy cho những kẻ sanh ra hiểu lầm về vô thường, v.v., nên nhân đó thuyết kinh Niết-bàn này, đó gọi là ‘phù luật đàm thường giáo’. 高觀廬居士 編纂, 《實用佛學辭典》, 財團法人佛陀教育基金會, 台北, 2002, 頁794.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét